Hôm nay,  

Khuôn Mặt Trong Gương The Face in The Mirror

11/11/202200:00:00(Xem: 1127)

Mohsin-Hamid

Mohsin Hamid

(1971 - Hiện tại)

Nhà Văn Pakistan

Mohsin Hamid sinh trưởng trong gia tộc Punjabi dòng Kashmiri. Sống ở Mỹ từ thời thơ ấu. Theo học PhD ở Stanford University. Rồi dời sang Lahore, Pakistan, trở về Mỹ vào học trường Lahore. Tốt nghiệp luật sư tại đại học Havard năm 1997.  



Lời người dịch:
“Khuôn Mặt Trong Gương” trích từ tiểu thuyết “The White Man” (Người Da Trắng) của nhà văn Mohsin Hamid, vừa phát hành trong tháng 8, 2022. Một truyện ngắn thời đại có nội dung về hiện trạng mâu thuẫn giữa da trắng và da đen, được diễn đạt từ nhãn quan của một người da trắng nhìn về bản thân của mình là da đen. Trắng và đen trở thành kẻ nội thù. Trắng và đen chỉ là một người. Liệu da trắng nghĩ gì về da đen khi bản thân là da đen? Hoặc ngược lại?
 
 
Một buổi sáng, Anders, người đàn ông da trắng, thức dậy, thấy da mình đổi sang màu nâu đậm, không thể nào phủ nhận. Chuyện này xảy đến từ từ, rồi đột nhiên, nhận thấy rõ ràng. Đầu tiên là cảm giác khi anh đưa tay lấy điện thoại, ánh nắng ban mai như đang làm điều gì kỳ lạ với màu da trên cánh tay. Sau đó, nhất thời bật ra ý nghĩ, có người nào khác đang nằm chung giường với anh, một đàn ông da đen, mặc dù đáng kinh sợ, nhưng chuyện này chắc chắn không thể xảy ra. Anh yên tâm vì khi anh di chuyển, người kia di chuyển theo, như vậy, không phải có người nào khác biệt, chỉ là anh, Anders, mà thôi. Điều này dấy lên làn sóng nhẹ nhõm, vì nếu lập luận, người đó chỉ là tưởng tượng, có nghĩa, việc làn da đổi màu cũng là trò lừa bịp, một ảo ảnh quang học, một thứ nhân tạo bởi tâm trí, được sinh ra nửa đường trơn trợt giữa mê và tỉnh, ngoài việc lúc này anh đã cầm điện thoại trên tay, bấm xoay ngược phần chụp ảnh, để thấy khuôn mặt đang nhìn anh, hoàn toàn không phải của mình.  

Anders trườn ra khỏi giường, lao mình vào phòng tắm, để tự trấn an, nhưng anh cố gắng đi chậm lại, cân nhắc hơn, suy nghĩ hơn, liệu anh làm như vậy phải chăng để xác nhận khả năng kiểm soát tình trạng, để buộc thực tế phải quay trở về bởi sức mạnh của tâm trí; hoặc vì hành động chạy trốn khiến anh càng sợ hãi hơn, như con mồi bị truy đuổi; anh thực sự không biết.

Phòng tắm tồi tàn nhưng quen thuộc dễ chịu, những vết nứt trên nền, những dơ bẩn trong vữa trát, những vệt kem đánh răng khô nhỏ giọt bên ngoài bồn rửa. Có thể nhìn thấy bên trong tủ thuốc, cánh cửa gương hé mở. Anders giơ tay lên, lúc lắc hình ảnh của anh phản chiếu trước mắt. Nó không phải là Anders mà anh nhận ra. Bị cảm xúc kích động, không quá mãnh liệt, không buồn thảm, mặc dù cũng có phần nào, nhưng trên hết, khuôn mặt thay thế mặt anh đang bực bội, đúng hơn là tức giận, cơn thịnh nộ có thể đột nhiên giết người. Anh muốn giết người đàn ông da đen đang đối địch trong nhà của anh, để dập tắt sự sống đang thành hình trong cơ thể này, để không còn gì ngoài chính bản thân của anh, như anh trước đây. Dùng cạnh bàn tay nắm đấm, anh đập vào cái mặt hắn, gương rạn nứt, khiến toàn bộ đồ đạc, tủ, gương, tất cả đều lệch lạc giống bức tranh trải qua một cuộc động đất.  

Anders đứng yên, cơn đau ở tay tắt ngấm bởi một sức mạnh nào đó đang tràn đến, cảm giác mình run lên, một độ run mờ nhạt đến mức khó cảm nhận, rồi dần dần run mạnh hơn, như cơn lạnh mùa đông hiểm nghèo, như đông giá ngoài trời, không nơi ẩn núp. Khiến anh quay lại giường, chui dưới tấm trải, nằm trốn tránh một lúc lâu, ước muốn ngày hôm nay đừng bắt đầu, làm ơn, làm ơn, đừng bắt đầu.

Anders chờ đợi sự thay đổi trả lại mình như xưa, nhưng không thấy xảy ra, nhiều giờ trôi qua, anh nhận thấy mình đã bị đánh cướp, anh là nạn nhân của tội ác, nỗi kinh hoàng càng lúc càng lớn lên, một tội ác đã cướp hết mọi thứ thuộc về anh, cướp luôn anh ra khỏi anh. Bây giờ, làm sao anh có thể tự nhận mình đã từng là Anders, và đang là Anders, vì người đàn ông khác đang nhìn anh đăm đăm, trên điện thoại, trong gương soi. Anh cố gắng không tiếp tục theo dõi, nhưng cứ thường xuyên quay trở lại kiểm tra, nhắc nhở vụ cướp. Những khi không kiểm tra, vẫn không thể thoát được hình ảnh cánh tay, bàn tay màu da đậm. Kinh hoàng hơn nữa, cho dù trong lúc anh có thể điều khiển đôi tay nhưng không có gì bảo đảm chúng sẽ luôn luôn như vậy. Rồi anh không hiểu cái ý tưởng bị bàn tay bóp cổ cứ hiện ra trong đầu như một ký ức tồi bại. Không hiểu đây là hành động anh sợ hãi hoặc là chuyện anh muốn làm nhất?

Sau cùng, mặc dù không thấy đói, anh vẫn cố ép mình ăn chiếc bánh mì kẹp để thư giản một chút, bình tĩnh hơn, tự nhủ, mọi chuyện rồi sẽ ổn thỏa, mặc dù không thể tự thuyết phục. Anh muốn tin, bằng một cách nào đó, anh sẽ thay đổi trở lại, hoặc được chữa trị, nhưng đồng thời, anh đã nghi ngờ và không tin ý tưởng này. Khi tự hỏi, liệu đây có phải là chuyện hoàn toàn tưởng tượng hay không? Cách chứng minh hay nhất là chụp tấm ảnh và đưa vào lập trình điện tử về hình ảnh, với kỹ thuật toán học chắc chắn đáng tin cậy, trước đây nó đã nhận ra tên anh, nhưng lần kiểm tra này, nó không thể xác định anh là ai.

Bình thường Anders không bận tâm đến việc ở một mình, nhưng lúc này, không thể không cảm thấy cô đơn, đúng hơn, có kẻ đồng hành dữ dằn, không thân thiện, đang ở đây, khiến anh bị cầm chân trong nhà, không dám bước ra ngoài. Anh đi từ máy vi tính đến tủ lạnh, qua giường ngủ đến ghế dài, tiếp tục đi lại trong một khoảng cách nhỏ hẹp, không thể đứng yên thêm một phút nào, vì Anders không thể chạy trốn Anders, kéo theo sự buồn phiền.

Không thể không tìm hiểu bản thân, anh bắt đầu kiểm tra tóc, râu, mụn trên da tay, các mạch máu ở đó khó thấy hơn, màu sắc móng chân, bắp thịt trên chân, và cuống cuồng cởi bỏ áo quần, dương vật, kích thước và chiều dài không đáng kể, ngoại trừ nó không phải là của anh. Do đó, thật là quái dị, không thể chấp nhận, như một sinh vật ở biển, không nên hiện diện.

Anh gửi tin nhắn đến chỗ làm, đã bị bệnh ngay ngày đầu tiên. Tin nhắn thứ hai cho biết anh bị bệnh nặng hơn đã tưởng, và có lẽ sẽ phải nghỉ suốt tuần lễ. Người chủ gọi điện thoại, anh không trả lời, ông chủ nhắn tin, "tốt hơn là cậu chết tiệt đi", nhưng rồi, ông để yên cho anh. Tuần lễ đó, ra đường một cách tối thiểu, Anders mơ hồ cảm thấy bị đe dọa khi đi loanh quanh qua phố, mặc dù có thể mang lại rủi ro, anh mặc áo có mũ trùm, không nhìn thấy mặt từ hai bên. Nếu trời lạnh hơn trong những ngày đầu thu rực rỡ, anh sẽ đeo găng tay, nhưng với nhiệt độ này, việc đó trông thật khôi hài, anh giấu hai tay đút vào túi, đeo ba lô một bên vai, để chứa những gì anh sẽ mua sắm, cuộn giấy, bánh mì, dây sạt pin cho điện thoại. Nghĩa là, hầu như bàn tay luôn luôn phải lẫn trốn, chỉ phóng ra mở cửa, phóng ra trả tiền, làn da nâu chớp nhá như con cá vụt phóng lên mặt nước rồi rơi xuống, vì nhận biết nguy cơ bị nhìn thấy. 

Người quen không còn biết anh. Băng ngang qua họ trong xe hoặc trên vỉa hè. Đôi khi họ tự động nhường chỗ cho anh, rồi đôi khi anh tự nhiên nhường chỗ cho họ. Không ai đánh, chém, hoặc bắn anh (vì da màu); không ai nắm bắt, không ai la hét vào mặt, tối thiểu là chưa xảy ra. Anders không hiểu cảm giác đe dọa đến từ đâu, nhưng nó hiện diện, mạnh mẽ, một khi đã rõ ràng, anh là người xa lạ đối với những người quen có thể gọi tên, anh không dám nhìn thẳng mặt họ, mà chỉ để ánh mắt lơ đảng theo kiểu nhìn muốn hiểu sao cũng được. 

Gần như đáng lo ngại nhất, khi nhìn ai đó không quen mà cảm giác họ nhận ra mình. Họ có thể là một người nào trong bóng tối, người đang chờ ở trạm xe buýt, kẻ đang lau sàn, hoặc trong nhóm người ngồi sau xe tải. Anh không thể trốn tránh ý nghĩ, những kẻ ngồi sau xe như một nhóm súc vật, không phải người, đang được vận chuyển từ nơi này sang nơi khác. Điều đáng lo ngại hơn, khi người đàn ông da đen nhìn Anders, như thể anh ta nhìn thấy anh ta, khoảnh khắc ánh mắt họ gặp nhau, không thận thiện, không thù địch, chỉ bình thường như mọi người nhìn nhau trong tư cách con người, Anders vội vàng nhìn tránh nơi khác. 

Anders không mách cha anh, không rõ lý do, có lẽ, vì ông thường xuyên thất vọng về anh, chuyện này xảy ra sẽ làm ông thêm thất vọng. Hoặc cha anh đã cưu mang quá nhiều, anh không muốn làm tăng thêm gánh nặng. Hoặc cho đến khi anh kể cho cha nghe, thì việc thay màu da không thực sự xảy ra. Anders vẫn là Anders, trong ngôi nhà nơi anh lớn lên, nếu kể chuyện này sẽ làm mọi thứ trở nên khác biệt mà vẫn không thay đổi được gì, nhưng bất kể vì lý do nào, anh chờ đợi, rồi anh sẽ phải nói cho cha biết.  

Anh kể qua điện thoại, đây là việc hèn nhát, lần đầu tiên đang nói, cha anh cúp máy. Lần thứ hai, ông hỏi, có phải anh đang say thuốc, nếu ông nghĩ đây là trò đùa, khi Anders trả lời không với hai câu hỏi, cha anh gằn giọng, tiếng nói đinh tai, rổn rảng anh đã quen, hỏi đứa con trai có phải đang cố gán lỗi cho ông là kẻ kỳ thị, Anders trả lời dứt khoát không phải, cha anh kết luận, nếu muốn, con hãy đến đây, chỉ cho cha xem.

Cha anh đã đánh anh vài lần, nhưng thật sự đánh một cách mạnh bạo chỉ có một lần duy nhất vì mẹ anh ngăn cấm không cho tái diễn. Lần bị đánh này vì anh bất cẩn, dù đã bị cảnh cáo nhiều lần, vẫn cẩu thả, xẩy tay làm khẩu súng trường nổ đạn. Hồi đó, Anders thấp hơn cha hai cái đầu, anh nghĩ, ông đánh là phải rồi, nhưng anh không bao giờ quên, không phải vì trận đòn hay bài học, điểm chính yếu, súng là nhân vật ghi sổ trên đường vào cõi chết, tương tựa như quan tài, nấm mồ hoặc bữa ăn mùa đông. Giờ đây, lái xe đến nhà cha anh, vì giờ đây Anders cao lớn, to con hơn, với lý do nào đó, trận đòn cũ tìm đến trong tâm trí.

Cha của Anders là quản đốc xây dựng, gầy gò, ốm yếu, mang bệnh gan, nhưng không tin bác sĩ nên từ chối khám bệnh, đôi mắt lợt lạt bỏng rát như đang sốt, hoặc đang cầu nguyện cho một vụ giết người. Chuyện của ông là như vậy kể từ khi mẹ anh qua đời, hoặc kể từ ngày bà mang trọng bệnh và biết rõ sẽ không thể khá hơn, hoặc có thể trước đó nữa, Anders không chắc. Vì gầy còm, lưng ông dựng lên, hai cánh tay như hai sợi dây thừng. Ông bước đi mang theo một khối nặng không thể tưởng, hầu như không lắc lư, với một loại sức mạnh có khả năng hoàn tất công việc, một sức mạnh đáng sợ. Nếu Anders thành thật và cha anh đang chờ anh đến trước hiên nhà, ông đang tìm kiếm đứa con trai, đứa con nhắc nhớ đến người vợ, con trai cưng của mẹ. Cậu trẻ này không phải mềm yếu, nhưng dịu dàng, có lẽ tốt hơn cho cậu, dễ dàng chìm sâu mơ mộng, được mẹ để lại dấu ấn đẹp đẽ. Một cậu bé trong khuôn mẫu người mẹ. Giờ đây, ông đang nhìn cậu bé, khi Anders đến gần, những gì trước kia hoàn toàn biến mất, người vợ biến mất, đứa con trai này, chuyện dễ dàng cũng gây ra khó khăn, vẫn chưa tìm thấy con đường riêng. Cha của Anders có thể nhìn thấy đứa con này sẽ đau khổ, mẹ nó đã ra đi, không còn thấy nó nữa.

Cha của Anders đứng đó, điếu thuốc trên môi, một tay nắm chặt tay áo anh, tay kia ôm lấy bên hông anh, ông khóc, giống cơn rùng mình, giống cơn ho không dứt, không thành tiếng, nhìn sửng vào một người đã  từng là Anders, cho đến khi đứa con trai đưa cha vào nhà. Sau cùng, cả hai ngồi xuống. 

Tin tức về người ta thay đổi màu da khởi sự xuất hiện khắp nơi trên đất nước. Lúc ban đầu, các báo cáo hoàn toàn đáng chê trách, dễ bị xem thường, ngụ ý chế giễu, nhưng về sau được các nhân vật đáng tin cậy lên tiếng. Một câu hỏi cần được xác nhận, đang được xảy ra. Trên truyền hình Anders đã xem phóng viên phỏng vấn một người da trắng, mà nay da không còn trắng.

Đối với người chủ, Anders giải thích tình trạng của mình, không phải là duy nhất, lại dễ lây lan, theo như mọi người đã biết. Sau một tuần nghỉ, anh trở lại phòng tập thể dục, ông chủ đang chờ anh ở lối vào. Trông ông lớn hơn là hình ảnh anh nhớ, mặc dù rõ ràng cùng kích thước. Ông chủ nhìn Anders rồi nói, "Có lẽ, tôi sẽ tự vận." Anh nhún vai, không biết trả lời ra sao. Ông chủ tiếp lời, "nếu bị như thế này." Mặc dù bốc mùi mồ hôi, phòng tập trống vắng, còn sớm, những giá dựng bằng sắt, sàn gỗ và các băng ghế có băng keo dán những chỗ rách, chẳng có ai ngồi. Ông chủ và anh tập thể dục trước khi các thành viên khác xuất hiện. Ông chủ đang lục đục với những bộ tạ nặng nề trên ghế ngồi xổm, to lớn, khủy tay như đầu gối, đầu gối như cái đầu, mặt đỏ bừng vì ham tập như bất cứ lúc nào ông bưng đồ nặng.

Ông chủ nói, ông sẽ tự vận nếu bị thay da màu và tuần lễ sau, một người đàn ông trong thị trấn đã thực hiện điều đó. Câu chuyện được Anders đăng lên báo địa phương hoặc đúng hơn là đăng lên mạng, trong một ấn phẩm lớn vì báo địa phương đã đóng cửa từ lâu. Người đàn ông này tự bắn vào mình trước tư gia. Nghe súng nổ nhưng không chứng kiến, người hàng xóm gọi cảnh sát. Giả định là một hành động tự vệ, xác người da đen đột nhập gia cư nằm đó. Bị bắn bằng chính súng của kẻ trộm sau một hồi vật lộn. Nhưng người chủ nhà không có mặt, không tìm thấy đâu cả, rồi nhẫn cưới, ví tiền, điện thoại của người của người chết được điều tra. Tìm hiểu các tin nhắn trong máy, các điều tra viên cân nhắc kết luận. Nói một cách khác, một ông da trắng đã bắn chết một ông da đen, nhưng ông da trắng và ông da đen giống nhau y hệt.

Tâm trạng dân trong thành phố đang thay đổi nhanh chóng hơn cả chuyện đổi màu da. Anders vẫn chưa nhận thức được một chút nào về số lượng người bị hóa đen trên đường phố, hoặc nếu có, không phải là con số chắc chắn. Theo sự kiện này, số người thay màu da vẫn đang sống rất ít, nhưng về tâm trạng, đúng vậy, tâm trạng chung đang biến chuyển. Các kệ chứa trong các cửa hàng càng lúc càng trống rỗng. Ban đêm, đường phố càng hoang vắng. Gần đây, cả ban ngày, thậm chí, ngắn lại và mát mẻ hơn. Lá cây không còn tự tin vào màu xanh của nó, trong khi sự đổi mùa lúc này là chuyện đương nhiên, nhưng đối với Anders, mọi thứ đều trở nên tồi tệ.

Bạo động bùng nổ trong thành phố, ẩu đả ở đây, súng bắn ở kia, thị trưởng liên tục kêu gọi mọi người bình tĩnh. Dân quân vũ trang bắt đầu xuất hiện trên đường, những người lính da trắng, một số ăn mặc quân phục gần giống lính chiến đấu, hoặc một nửa giống lính, với quần dài kiểu quân đội và áo khoác thường dân. Một số khác ăn mặc như thợ săn, y phục màu rừng núi, hoặc mặc quần jean với áo khoác cài sẵn đạn dược. Cảnh sát không thực sự ngăn chận đám dân quân này, bất kỳ họ ăn mặc ra sao và trang bị vũ khí như thế nào.  

Lần tiếp theo Anders đến gặp cha là một ngày trời nhuốm lạnh. Dùng đường vào phía sau nhà, đi một cách ngập ngừng, dừng lại quan sát ở các nơi giao lộ, giống động vật ăn cỏ, có khả năng mưu sinh thoát hiểm, xác định những thứ gì ở phía trước rồi mới tiếp tục đi.  Anh mang găng tay, đội mủ trùm kín đầu, mang kính mát đậm, trá hình và cảm thấy không mấy hiệu quả, nhưng có lẽ đã đủ nếu nhìn từ xa. Không phải anh bị đe doạ, chưa bao giờ có, chỉ cảm giác vậy thôi, nhưng không muốn đối diện nguy cơ mà anh có thể tránh được. 

Khi gõ cửa, một hồi lâu cha anh mới mở. Anh ngạc nhiên khi thấy cha già hẳn sau vài tuần lễ từ lúc anh đến thăm lần trước. Đứa con chợt hiểu ra người cha đang trên đường rời bỏ trần gian, người đàn ông gầy gò, mạnh mẽ này gần như sắp từ giã. Anders rất an tâm vì cặp kính mát đậm để cha anh không nhận ra sự nhận biết trong mắt anh. Cha anh hơi cúi xuống, dù chỉ một chút, thường khi ông luôn luôn đứng thẳng. Ông cúi xuống như thể bệnh tật đã đấm một cú vào bụng sáng hôm đó, không muốn tỏ lộ cú đấm còn kéo dài đau đớn, nhưng một khi đang thẳng, rất quan trọng khi bị uốn cong, ngay cả một chút thôi, cũng gây ra sự chú ý.

Anders chứng kiến cảnh này. Họ bắt tay nhau, bóp chặt hơn bình thường, bù đắp sự ốm yếu. Cha anh không muốn nhìn con trai đã biến đổi ra sao. Không thích chuyện đó, nhưng thương con, ông phải nhìn, nắm chặt tay con lâu hơn, ôi, những da nâu trên làn da trắng. Ông vỗ vai, siết chặt con, biểu lộ cử chỉ thương xót. Ông nghiêng đầu như chào đón và đưa đứa con đen vào nhà.

Bên trong, đồ đạc cũ kỹ, không giống sở thích của cha Anders nếu để ông tự mua sắm. Chính người mẹ đã mua và điều này làm anh nhớ đến mẹ. Những đường viền nhỏ bọc theo ghế dài, bàn phủ khăn ren. Phòng khách treo nhiều hình ảnh gia đình, cha mẹ lúc còn trẻ, Anders khi còn bé; hình cả nhà, khoảng hơn mười năm trước và các bức ảnh già đi theo thời gian.

Người cha lắng nghe con mình than thở về những khó chịu, nhìn con uống một ly bia, trong khi ông để yên ly của ông, nhấm nháp chút đỉnh. Bia không còn theo thói quen thích đáng vì ông không kềm chế được lúc uống.

Lấy chiếc bình kim loại đựng tiền, đưa cho con trai, mặc kệ anh phản đối. Ông lục tủ rồi giúp con trai chất một số đồ dùng cần thiết vào xe, hoặc đưa cho con, dù sao anh cũng là người sắp xếp. Đứng không cũng đủ đau nhức, nhưng ông mặc kệ vì đau đớn thường xuyên là một phần đời sống bây giờ, không thể chọn lựa, không thể trốn tránh, chỉ cố chịu đựng, như nhịn nhục người anh em xấu tính. Ông lấy khẩu súng trường và hộp đạn, bất chấp sự miễn cưỡng của con, ông nén lòng rồi nói, "con giữ đi, chờ lúc cần thiết." Ông nhìn ra con mình phải làm những gì cần làm: chấm dứt giả vờ và bắt đầu chấp nhận hoàn cảnh thực tế. Anh nhận lấy khẩu súng trên tay cha, rõ ràng súng rất cần cho anh. Đứa con trở nên nghiệm nghị khi cầm khẩu súng nặng và hộp đạn, đúng là anh phải có súng, tình huống này đòi hỏi phải nghiêm trọng. 


Khi trở về nhà, Anders băn khoăn, liệu súng có thực sự giúp anh an toàn, vì tự nghĩ chỉ có một mình, tốt hơn là không nên đương đầu với những rắc rối. Cứ tưởng tượng, bằng cách nào đó, người ta tìm đến anh, nếu họ biết anh có súng, ngay cả khi họ không phát hiện ra súng, nhiều người trong họ đã trang bị vũ khí, anh chỉ cảm giác, điều cốt yếu anh không phải là mối đe dọa, không bị xem là người nguy hiểm, với màu da đen như anh, anh có nguy cơ một ngày nào đó bị hủy diệt. 

Nơi làm việc, Anders không còn là người duy nhất bị thay da màu, một người khác cũng bị. Phòng tập thể dục chỉ dành cho da trắng, giờ đây thường có ba, thậm chí, bốn người đàn ông da đen hiện diện. Anders nghĩ, nhiều da đen có thể làm chuyện này quen đi, nhưng ngược lại, phòng tập càng căng thẳng. Những người quen biết nhau nhiều năm, giờ đây, không muốn nhìn mặt, hoặc tệ hơn, không ưa nhau, thù hằn nhau.

Một đêm, khi Anders sắp sửa ra về, hai người đàn ông lớn tiếng cãi nhau, rồi kéo ra ngoài, họ lớn tuổi, to con, đồ sộ, mạnh bạo, và nhanh nhẹn một cách đáng ngạc nhiên, mặc dù bụng khá lớn. Họ bắt đầu xô đẩy trong bãi đậu xe, một ít người đứng vây quanh, không nói gì, khiến Anders ngạc nhiên. Họ không ngăn cản, không cổ võ, chỉ im lặng theo dõi. Chẳng mấy chốc, hai người đàn ông đấm đá nhau, dữ dội, tiếng gầm gừ, tiếng thình thịch phát ra từ cú đấm trúng một bên mặt, tiếng như cái gì đó bị nứt, chất lỏng mềm cùng tiếng xương rệu rạo vang lên, một âm thanh khó chịu đến nổi Anders phải quay mặt, bỏ đi, không thấy chuyện gì xảy ra tiếp theo, không biết da đen hoặc da trắng ai hơn ai. 

Anders không muốn thấy, dù không nhìn, đêm đó âm thanh đánh lộn vẫn kéo dài, lai vãng đến ngay cả lúc anh nằm lên giường ngủ. Làm cho Anders tự động co giật, nhăn mặt, méo miệng, phản ứng tâm lý theo tiếng vang.

Anh nghe các dân binh đã bắt đầu xua đuổi đám người thay đổi màu da, những ai da đen, chạy ra khỏi thành phố. Khi thấy vài chiếc xe kéo đến đậu trước nhà, anh hiểu chuyện này có nghĩa gì, mặc dù, có lẽ luôn luôn là điều ngạc nhiên khi điều gì đang chờ đợi, đang kinh hãi, một thảm họa lớn, thực sự xảy ra. Anh đã chuẩn bị một cách không chuẩn bị nhưng sẵn sàng. Không ngờ một trong ba người đàn ông đến nhà là người anh từng quen biết. Khiến câu chuyện trở nên tồi tệ, như bị bóp cổ, mặt đỏ bừng. Anders không để họ đến gõ cửa, anh tự mở, đứng ngay ngưỡng cửa, cầm khẩu súng trường trên tay, tư thế tự vệ, chĩa mũi súng ra trước, đứa con nghĩ đến hình ảnh người cha đi săn.

Hy vọng, họ trông thấy anh dũng cảm hơn là anh cảm giác, họ đều mang vũ khí nhưng dừng lại cách đó mấy bước khi thấy anh. Họ nhìn đăm đăm như thôi miên với ánh mắt khinh bỉ. Anders biết người anh quen cũng đang hăng tiết nhìn anh, giống như có điều gì đặc biệt, riêng tư. Anh có thể nhận ra họ tự đánh giá họ rất chính nghĩa và chắc chắn anh là người có lỗi, anh trở thành tên cướp đang cố gắng đánh cướp họ. Bị đánh cướp nhiều lần, không còn gì nữa, ngoài trừ làn da trắng, họ sẽ không cho phép anh hoặc bất kỳ ai, cướp đi thứ giá trị này.

Nhưng đặc biệt, họ không thích việc anh có vũ khí, nắm thế chủ động, đáng lẽ đây là vai trò của họ, không ngờ phản ứng của anh làm xáo trộn tình cảnh lẽ ra phải xảy đến dễ dàng. Anh nói với một người quen, hai người lạ, Tôi có thể giúp các ông chuyện gì?

Anh lắng nghe họ nói, sau cùng, họ bảo anh nên ra đi trước khi họ quay lại. Anders trả lời, rồi họ sẽ biết hậu quả. Khi nói điều này, gần như anh tin rằng, anh sẽ ở lại nhà mình. Giọng nói đầy vẻ tức giận. Anh vui mừng vì sự tức giận này, bất chấp nụ cười bác bỏ của họ, rồi họ bỏ đi ra xe. Anders cảm thấy mức độ nhẹ nhõm, nhẹ một cách thấm đẫm, ướt sủng anh với sự thất bại. Anh biết, chỉ vài phút sau đó, anh sẽ bỏ đi, chạy trốn nơi này, nhà của anh, nơi thân thuộc, sẽ bị đánh mất, không còn thuộc về anh nữa.

Khi đến nhà cha anh, người cha đưa anh vào, kéo đóng rèm cửa cũ nát, đậu xe anh phía sau, chiếc xe trước đây là của vợ ông. Lái ra sau nhà, dừng trên mảnh đất hẹp, nơi bà gọi là khu vườn, đã từng trồng cà chua, đậu Hà Lan, và cỏ xạ hương, bây giờ chỉ là mảnh đất đầy cỏ dại, cỏ khô, chết vào đầu mùa đông. Cha anh nhìn quanh quất để bảo đảm không ai nhìn thấy chiếc xe từ đường cái. Ông đi lựng khựng, yếu ớt nhưng có ý tứ, sau khi tính toán, ông ngồi cạnh con trai trong phòng khách, mở truyền hình và dựng khẩu súng bên cạnh. Họ chờ đợi có ai xuất hiện, yêu cầu giao Anders ra, nhưng không ai đến, không ai đòi hỏi, ít nhất là trong đêm đầu tiên ở đây.

Ông cũng chưa quen với Anders, thấy anh ngờ ngợ làm sao, trong một tâm cảnh nào đó, ông chưa bao giờ quen với anh, kể cả khi Anders còn nhỏ, cậu bé ít khi nói, vật lộn khi cột dây giày hoặc khi viết chữ mà mọi người có thể đọc. Mặc dù, ông không phải là học sinh giỏi, xuất sắc, nhưng là người có đủ năng lực làm các nhiệm vụ được giao phó, không chỉ trong trường học mà kể cả bên ngoài. Nhưng con ông, nó khác hẳn. Thừa hưởng tính tình của mẹ và được bà cưng chiều. Tạo ra bức tường ngăn cách giữa ông và con trai.

Khi nó còn nhỏ, ông hiểu lý do tại sao những trẻ con khác bắt nạt nó. Bây giờ, cũng hiểu được những người muốn Anders rời khỏi thành phố, những kẻ sợ anh, hoặc bị đe dọa bởi người da đen mà anh đã biến thành. Họ có quyền làm vậy và ông cảm thấy, nếu ông là họ, cũng không thể làm gì khác hơn. Ông thấy trước sự báo hiệu kết thúc của đứa con trai để chấm dứt mọi chuyện, Nhưng thực tế, ông không phải mù. Họ không thể đến bắt đứa con trai từ ông, không dễ dàng như vậy, ông là cha anh ta. Bất kỳ Anders là ai, màu da nào, vẫn là con ông, con vợ ông. Anh là ưu tiên một, trước những bổn phận khác, là thứ gì thực sự quan trọng, cha anh sẵn sàng xử cho hợp lẽ phải bên cạnh con trai. Đây là trách nhiệm có ý nghĩa đối với ông hơn là mạng sống. Ông sẽ làm những gì có thể làm được trong tầm tay của ông.

Vào buổi sáng, mất điện, ngôi nhà u ám, không có đèn phải kéo rèm, đủ sáng để nhìn thấy. Hai cha con cho rằng, nên tiết kiệm nến chờ khi trời tối. Họ xoay sở trong âm u. Họ phát hiện cả hai điện thoại không còn bắt được sóng. Anders tự hỏi, liệu dịch vụ cố ý cắt đứt hoặc pin ở các tháp nối điện thoại đã cạn.

Anders một mình, nằm tựa trên chiếc giường cũ thời thơ ấu, cảm thấy rất cô đơn khi không thể truy cập vào thế giới mạng lưới. Nếu không nói cô đơn theo nghĩa đen, thì cô đơn theo anh đang cảm giác, đúng, giờ đây, thật tàn nhẫn khi tước đoạt những cuộc trò chuyện trực tuyến trên mạng lưới, không chỉ trong phố mà khắp cả đất nước. Bản thân thời gian chậm lại, giống như những giây phút đang mệt mỏi, đang đến gần kết thúc. Rồi vào khoảng nửa đêm, bất ngờ có điện trở lại. Điện thoại bắt được tín hiệu và thời gian cũng trở về tiếp tục làm thời gian.

Nhiều ngày trôi qua, thỉnh thoảng họ nghe tiếng súng nổ. Có một đêm, tiếng nổ ngay bên ngoài cửa, nhưng họ không phải đương đầu. Đáng lẽ, Anders phải vui mừng vì đã trốn tránh được đám dân binh. Tạm thời, nếu hưởng được sự an tâm vì sống gần cha, ngược lại anh bị sốc khi phát hiện mức độ đau đớn thể xác mà ông phải chịu đựng. Nỗi đau mà ông có thể che giấu trong khoảng ngắn, không phải suốt buổi tối, không phải trong nhiều giờ kéo dài. Anders có thể nhìn ra sức chịu đựng trên khuôn mặt và trong các cử động của ông. Dù cha anh cố tránh né, lui vào phòng riêng, nhưng Anders có thể nghe tiếng càu nhàu đứt khoảng và tiếng chửi thề lầm bầm, một trận chiến đang diễn ra bên trong. Cha anh đã thua, điều này khiến cho anh cảm thấy lội lỗi vì không thể làm đứa con tốt hơn, đã bỏ rơi cha anh, mặt khác, ngay cả khi anh biết người cha không cho phép anh nhận ra điều đó. Sự hiện diện của anh ở đây, đã lấy mất một thứ gì từ cha. Lấy đi phẩm cách của ông. Tình cảnh buộc ông phải để cho con nhìn thấy mình qua những hình ảnh mà ông không muốn.     

Giờ đây, cha anh hầu như ít khi rời khỏi phòng ngủ. Trong đó đã bốc mùi. Mùi này có thể nhìn thấy trên mặt Anders khi anh bước vào, đôi khi, ông có thể tự ngửi được, thật kỳ lạ, giống như cá bị ươn, và mùi ngửi thấy là mùi chết, cái mùi mà cha anh đã biết, nó đang tiến đến gần, khiến ông khiếp đảm, nhưng không hoàn toàn kinh sợ, không, ông đã sống với sợ hãi quá lâu ngày, không thể để nỗi sợ quản thúc, chưa đâu. Ông sẽ tiếp tục cố gắng không để sợ hãi làm chủ. Bình thường, ông không đủ năng lực để suy nghĩ, nhưng giờ đây ông suy nghĩ về điều gì để làm cho cái chết trở nên tốt đẹp hơn. Ý thức của ông là một cách chết tử tế, không làm cho con kinh sợ. Ông nghĩ, nghĩa vụ của người cha là phải tránh chết trước mặt con, điều mà người cha không thể kiểm soát. Đúng hơn, nếu phải chết trước mặt con, nên chết theo cách nào đó như để lại cho con một thứ gì, cho con trai mình một sức mạnh để sống, sức mạnh mà một ngày nào đứa con sẽ dùng để tự mình chết một cách tốt đẹp như cha anh ta. Vì vậy, cha của Anders cố gắng biến hành trình cuối cùng đi vào cõi chết như một tặng phẩm, nhưng không dễ gì, thật không dễ dàng, gần như không thể được, nhưng đó là điều ông quyết chí, giữ trong tâm trí và đang nỗ lực thực hiện.

Nỗi đau đớn đã gia tăng đến mức không thể làm gì khác hơn, Giờ này qua giờ kia, không còn là người, không còn là cha của anders, chỉ còn thống khổ. Nhưng rồi, cơn đau dịu xuống một chút, người đó lại xuất hiện, trở thành cha của Anders. Ông có thể nhìn thẳng vào đôi mắt đứa con đã đổi màu, gật đầu, để con mắm lấy tay và lắng nghe con nói những lời dịu dàng thưa thớt, giống như lời của vợ ông đã từng dịu dàng. Rồi đến một lúc, ông ra dấu bằng cách hích đầu về phía cửa, để đứa con biết ý đi ra, trước khi cơn đau trở lại vật vã ông.

Sau nhiều tuần lẫn trốn ở đây, Anders quyết định mạo hiểm ra khỏi nhà, liều lĩnh đi tìm thuốc giảm đau cho cha. Nghe có một nhân viên làm trong bệnh viện chờ hấp hối, chuyên giao dịch mờ ám, anh gọi cho ông ta. Ông yêu cầu Anders đến gặp trực tiếp nếu muốn bàn thảo việc gì. Giọng nói ra vẻ người da trắng khiến Anders không muốn để lộ màu da của mình. Đặt khẩu súng vào xe, lấy hết can đảm lái đến nơi hẹn. Suốt đường đi không ai gây trở ngại cho anh và người đàn ông nói có vẻ da trắng hóa thành da đen. Anders nghĩ, ông không giống giọng nói của ông. Rồi lại nghĩ, biết đâu, ông ta cũng nghĩ như vậy về mình. 

Giải thích về hoàn cảnh khó khăn của mình, không rõ ông có tin hay không, nhưng ông cho Anders những lời khuyên cần thiết. Anh trả tiền mặt. Dĩ nhiên không có toa thuốc, cũng không cố gắng giả vờ có toa thuốc, chỉ có một túi giấy màu nâu. Không hiểu vì lý do gì đã khiến Anders nhớ lại khi còn bé, cha đã đưa anh đi làm, ngồi giữa đám đàn ông mạnh mẽ ở công trường xây dựng. Những người này kính trọng cha anh, có thể thấy qua cử chỉ của họ. Anders cảm thấy tự hào đã ngồi chung với họ, một cậu bé giữa những người lớn. Họ mở túi ăn trưa với nhau một cách bình đẳng.

Với những viên thuốc giảm đau, trên đường trở về nhà cha mình, cả hai tay anh cầm chặt bánh lái, Anders nhận ra có nhiều khuôn mặt da đen, chẳng hiểu ra sao, thành phố bây giờ thấy khác, một thành phố khác, một quốc gia khác vì nhiều người da đen khắp nơi, nhiều da đen hơn da trắng, chuyện này làm anh khó chịu, cho dù anh cũng da đen. Nhưng rồi cảm thấy yên tâm vì một số cửa hàng đã sinh hoạt trở lại. Đèn giao thông hầu hết hoạt động như thường lệ. Anh còn vượt qua xe cứu thương, nó chạy rất bình thường, không còi báo động, chỉ lái từ nơi này sang nơi khác như một ngày bình thường, không vội vã, nghĩ mà điên đầu. Khi về đến nhà, vào gặp cha, đưa ông thuốc giảm đau. Sau đó, anh đi từ phòng này qua phòng kia, kéo rèm lên, mở rộng các thanh rèm.

Những ngày cuối cùng của cha anh, ông ít nói, chỉ đôi lời, thỉnh thoảng một câu ngắn. Anders sung sướng với những khoảnh khắc này, những lời nói, mặc dù không phải lúc nào anh cũng hiểu. Cha anh không còn nói được rõ ràng, giờ đây, tiếng nói chỉ còn là âm thanh. Anders thường cảm nhận mẹ anh, dù sao, cũng cảm nhận ký ức của anh và lòng thương nhớ mẹ. Anh hy vọng cha cũng cảm nhận được mẹ như vậy.

Cha Anders thỉnh thoảng nhìn người da đen ngồi cạnh bên giường, biết là con mình, rồi có lúc không biết là ai đây, nhưng tự biết, mình có bổ phận đối với người này. Ông phải cho anh ta tất cả những gì ông có thể, vì vậy đã cố gắng làm hết sức một cách đặc biệt, dù không chắc người này là ai. Ông cảm nhận được cảm giác làm cha, hoặc giả là cảm giác làm con, như thể ông là con của anh này. Cả hai người cha, cả hai người con, có mối ràng buộc, họ sẽ tạo ra lối đi chung, nếu không được như vậy, tối thiểu họ sẽ tiếp cận việc này mà không phải đơn độc.

Cha Anders qua đời một buổi sáng trong lành, không lâu sau bình minh. Anh đã ở cùng ông cho đến phút cuối. Đêm đó, anh đi ngang qua, nhận thấy cách thở của cha mình thay đổi, anh ở lại với ông. Trong bóng tối, cha anh đã mở mắt, nhìn thấy con trai ngồi cạnh bên. Họ nhìn nhau, rồi ông nhắm mắt lại, hơi thở nặng nhọc lại càng thêm khó nhọc, cho đến khi sự cố gắng thở thể hiện rõ ràng, âm thanh nó tràn ngập căn phòng, như cha Anders đang hít thở qua tấm vải, càng lúc càng dày. Động lực bơm nơi ngực càng gia tăng sức đòi hỏi. Rồi một hơi thở phào dài mạnh mẽ, một hơi thở tuôn hết mọi thứ ra ngoài, đưa ông ra khỏi ông. Cha Annders đã ra đi.

Thoạt đầu, Anders không khóc, chỉ ngồi, như thể đang chờ đợi điều gì. Cầm tay cha anh, cảm giá vẫn chưa nguội lạnh. Đến khi anh phải lấy điện thoại, ngay lúc này, anh chán ghét điện thoại, ghét sự thô bỉ của nó, sự sai lệch khoảng cách mà nó tạo ra liên hệ tức thì như điều gì siêu nhiên. Mãi đến lúc anh cầm điện thoại, mở màn ảnh sáng lên và cố gắng điều khiển bằng một tay hoặc bằng những ngón tay, anh đã bật khóc, khóc nhiều, khóc lớn tiếng, khiến anh ta tự ngạc nhiên, làm cho anh muốn rùng mình.

Cha của Anders qua đời không nợ nần và đã tự lo liệu trước về tang lễ cho mình. Đối với ông, cả hai đều là nguyên tắc, nghiêm trọng và không phổ biến. Ông đã báo trước cho Anders biết những gì phải làm. Nhân viên nhà quàn đã đến như những thợ sửa ống nước, họ ăn mặc đẹp và đưa xác người cha lên xe tang, chở đến nơi hành lễ. Anders theo sau như thể sợ cha mình bị đánh cắp hay thất lạc. Chỉ khi đến nơi, họ thuyết phục anh phải rời xa xác cha và họ sẽ liên lạc để gặp lại sau khi dịch vụ tẩm liệm đã hoàn tất. Họ trình bày rõ ràng, có kinh nghiệm, nhưng quan trọng hơn, họ nói với giọng điệu thực tế, chắc chắn không làm giảm đi sự nghiêm trọng của tang lễ. Anders nghe lời họ và quay lại nhà.  

Trên đường lái xe về, mặt trời chói chang ra vẻ không biết chuyện gì xảy ra, không có tuyết đóng trên mặt đất, thấy được màu xanh lỗ chỗ, đây là một ngày bình thường, gần như đẹp trời. Một ngày gợi ý, không hợp lúc, mâu thuẫn, rằng mùa xuân đang chớm nở. Tất cả chợt ập thẳng vào mặt Anders, một người mất ngủ đang lái xe và đỏ mắt.

Có thể Anders đã thần tượng hóa cha mình và có thể, đối với anh, người cha là kẻ nối kết mối liên hệ với quá khứ xa xôi, với những truyền thống mà anh chưa quen, hoặc sẽ không bao giờ quen. Anders đang bị thu hút bởi ý tưởng sẽ tự đào mộ cho cha mình, chợt tự hỏi, liệu cha anh có đào mộ cho ông nội hay không. Chẳng hiểu vì lý do gì, anh nghĩ, cha anh có đào mộ. Anh dự định gọi nghĩa địa để hỏi nếu anh có thể làm điều này, nhưng dừng lại, tự nói với mình, bộ điên rồi hay sao. Anh không gọi nữa. Tuy không đào nhưng tưởng tượng được cảm giác các vân gỗ trên cán xẻng cầm trong tay, xúc vào đất. Sau này, anh hối hận về quyết định đó, không cay đắng, chỉ nhạt nhòa, nhưng niềm hối hận kéo dài mãi suốt đời. 

Tại tang lễ của cha Anders, nắp quan tài mở một nửa, nhắc anh nhớ cánh cửa sau nhà. Cánh cửa có hai phần, khi anh còn bé, đôi khi, cha hay đứng ở đó. Phần dưới đóng, phần trên mở, cha anh thích dựa một tay lên thành cửa, tay kia hút thuốc lá, nhìn anh với vẻ mặt không đoán được, không biểu lộ tình cảm, không hẳn vậy, không phải là không có tình cảm, giống như ông đang cố gắng tìm hiểu điều gì. Bây giờ, ông đang nhắm mắt, có trang điểm, khiến nhìn ông cảm thấy hơi lạ, Anders không thấy nét mặt diễn tả điều gì và sẽ không còn thấy nữa.

Anders nghĩ rằng, cha anh rất ghét dịch vụ tang lễ, nhưng anh thì không. Cảm thấy thoải mái với những người đến viếng thăm bày tỏ sự kính trọng, dù anh không biết ai là ai, cho đến khi họ tự giới thiệu. Trong vài trường hợp, anh có thể đoán ra. Tuy không nhiều lắm nhưng cũng đủ, số người vừa phải, họ có mặt vì có lòng thành. Buổi lễ diễn ra tròn trịa, dẫn đưa câu chuyện xảy ra thành sự thật, ràng buộc Anders và những người khác bị bỏ lại phía sau vào chung một mạng lưới, chia sẻ những gì họ đã mất. Cha Anders là người da trắng duy nhất hiện diện, người da trắng duy nhất còn lại trong thành phố, trong thời điểm đó, không còn ai khác. Quan tài của ông đóng lại. Việc chôn cất hoàn tất, ông đã cam kết với lòng đất, người da trắng cuối cùng, tiếp theo, sau ông, không còn ai.
                         
(Trích từ "The Last White Man.")
 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở cái xứ sở u Tây này cũng có quá nhiều tự do, thành ra cuộc sống có lúc thành bất cập, công đoàn ra sức nhiều lần đình công, yêu sách này kia, đòi tăng lương, đòi làm ít thời giờ hơn, đòi nghỉ hưu sớm v.v… nhất là công đoàn CGT vận chuyển công cộng người đi làm việc như métro, RER, tramway, bus…
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tư Tưởng ghé ngang hậu cứ, dẫn ba thằng em: Bắc Hà, Th/úy Trọng và tui đi nhậu ở quán Thuỷ Tiên, gần Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ngày xưa, trước khi dời vô Phi trường Vĩnh Long...
Trên đường đến phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Gertrude Stein, tôi bước đi với tâm trạng phấn khích của một người sắp gặp Ernest Hemingway. Nắng chiều Paris phản chiếu từ cửa sổ những quán cà phê xuống con đường đá cũ tạo thành bóng râm dài phía trước. Tiếng reo hò chen lẫn tiếng đàn từ mấy quán bar nhỏ nơi góc phố gây nên bầu không khí sôi động dội vào tâm trí tôi...
Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên...
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.