Hôm nay,  

Làm Thế Nào Biden Có Thể Tạo Ra Những Việc Làm Tốt

14/12/202009:46:00(Xem: 3721)

Project-Syndicate 

Tác giả: Dani Rodrik
Dịch giả: Đỗ Kim Thêm 


Đại dịch COVID-19 sẽ để lại cho nền kinh tế Hoa Kỳ với một thị trường lao động đầy thương tổn. Hơn 20 triệu việc làm đã mất trong cuộc khủng hoảng và chỉ một nửa đã tìm lại được việc. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tình trạng mất việc đã gây ảnh hưởng đặc biệt đến những công nhân có hoàn cảnh khó khăn và ít học.

Điều này làm trầm trọng thêm một xu hướng vốn dĩ đã có từ trước. Trước đại dịch rất lâu, thị trường lao động Hoa Kỳ ngày càng trở nên phân hoá. Những công việc tốt dành cho tầng lớp trung lưu đã biến mất trong nhiều thập kỷ, do tự động hóa, phi công nghiệp hóa, cạnh tranh toàn cầu và sự ra đời của một thị trường lao động với đặc trưng là  không có việc cố định, mà có nhiều việc với các hợp đồng ngắn hạn hoặc tự do.

Để khôi phục nền kinh tế, xã hội và chính trị của Hoa Kỳ, chính quyền của Tổng thống đắc cử Joe Biden phải trả lời một câu hỏi đơn giản: "Những công việc tốt sẽ đến từ đâu?"

Công việc tốt đòi hỏi các kỹ năng cụ thể và chỉ có thể được tạo ra bởi các doanh nghiệp có năng xuất. Do đó, tạo ra nhiều việc làm với số lượng dồi dào đòi hỏi phải giải quyết được vấn đề cả cung và cầu.

Về phía cung, công nhân phải được trang bị các kỹ năng cứng và mềm mà các doanh nghiệp sản xuất cần đến. Về phía cầu, phải có một bộ phận đủ lớn gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa có năng suất cao vừa có khả năng mở rộng việc làm.

Vài thập kỷ qua là bằng chứng cho thấy chỉ riêng thị trường sẽ không giải quyết được vấn đề. Chính quyền các cấp phải tích cực vào cuộc. Tin vui là chúng ta đã tích lũy được bằng chứng đáng kể về loại các chương trình thực sự hoạt động.

Về mặt xây dựng kỹ năng, cái gọi là “chương trình đào tạo theo ngành” đã đặc biệt thành công. Các chương trình này vượt ra khỏi hình thức đào tạo truyền thống: chúng được phối hợp chặt chẽ với các chủ doanh nghiệp và cung cấp các kỹ năng được điều chỉnh theo nhu cầu của các ngành cụ thể, chẳng hạn như chăm sóc sức khỏe hoặc công nghệ thông tin. Những công nhân đăng ký tham gia các chương trình nhận được nhiều dịch vụ “toàn bộ”, từ chăm sóc trẻ em cho đến sắp xếp việc làm, ngoài ra còn thêm việc đào tạo và cấp chứng chỉ.

Trong số này, chương trình nổi tiếng nhất là Dự án QUEST ở San Antonio, Texas, đã hoạt động từ những năm 1990. Có nhiều chương trình khác hoạt động trong cùng một mô hình, chẳng hạn như Per Scholas ở Bronx, New York và JVS ở Boston. Các chương trình đào tạo theo ngành như vậy đã được chứng minh là làm cho thu nhập trung bình của những công nhân không có ưu đãi tăng hơn 20% so với mức lương tương đối thấp.

Tương tự như vậy, chúng ta có kinh nghiệm đáng kể về phía cầu để hướng dẫn cho chúng ta. Các ưu đãi thuế và trợ cấp đầu tư không giới hạn thời gian có thể thu hút các doanh nghiệp đến từ các khu vực tụt hậu, nhưng các biện pháp này không có hiệu quả đặc biệt. Chúng tốn kém và thường lãng phí nguồn lực công trong các dự án mà lẽ ra bằng mọi cách đã thành hiện thực.

Như Tim Bartik của Viện Upjohn đã chỉ ra, để hoạt động tốt hơn là nên cung cấp các dịch vụ kinh doanh hoặc cơ sở hạ tầng tuỳ theo nhu cầu của khách - chẳng hạn như tư vấn về quản lý và công nghệ, lực lượng lao động có tay nghề cao hoặc phát triển điền thổ - cho các doanh nghiệp địa phương. Được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp cụ thể, sự hỗ trợ kiểu này có thể giúp cho doanh nghiệp trở nên có năng suất hơn và mở rộng sử  dụng nhân lực bằng cách khắc phục những hạn chế cụ thể mà doanh nghiệp gặp phải. Các chương trình này đòi hỏi xây dựng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp địa phương và các nhà đầu tư tiềm năng, họ là những người hiểu rõ nhu cầu các doanh nghiệp, cũng như năng lực đáp ứng nhanh chóng và hiệu quả

Tin vui là nhiều như thế,  còn tin xấu là những sáng kiến thành công lấy công nhân và doanh nghiệp làm trung tâm này hiện đang hoạt động ở quy mô rất nhỏ. Các chương trình huấn nghệ theo ngành thường được điều hành bởi các tập hợp các cộng đồng địa phương hoặc các cơ quan phi chính phủ. Nguồn tài trợ hạn chế cũng như sự thiếu quan tâm của các cơ quan liên bang và tiểu bang khiến chúng không được mở rộng. Do đó, số lượng công nhân mà họ phục vụ lên tới hàng nghìn thay vì hàng triệu người cần đạt được.

Tương tự như vậy, các chương trình dịch vụ kinh doanh phù hợp cho nhu cầu bị thiếu hụt nghiêm trọng. Bartik ước tính rằng, các doanh nghiệp nhận được 47 tỷ đô la hàng năm từ các khoản ưu đãi do thuế liên bang và tiểu bang cho đầu tư. Ngược lại, kinh phí tổng cộng hàng năm cho các dịch vụ mở rộng sản xuất và đào tạo theo yêu cầu, vốn hiệu quả hơn nhiều về mặt tạo ra việc làm, chỉ lên tới khoảng 1 tỷ đô la.

Vấn đề thứ hai là các chương trình tập trung vào công nhân và doanh nghiệp thường không được phối hợp hoàn hảo. Mặc dù các chương trình đào tạo theo ngành được xây dựng dựa trên phương pháp phục vụ cho hai loại khách hàng, vừa chủ nhân và vừa công nhân, khả năng của họ trong việc tác động đến chính sách nhân dụng của các doanh nghiệp - bao gồm áp dụng công nghệ và thực hành trong nguồn nhân lực - vẫn còn hạn chế. Các chính sách lấy doanh nghiệp làm trọng tâm có thể bỏ qua nhu cầu nhân dụng của địa phương, nếu chúng tập trung quá nhiều vào các mục tiêu khác, chẳng hạn như là canh tân thông qua công nghệ mới và khả năng cho cạnh tranh xuất khẩu.

Các chương trình để tạo ra việc làm cho phù hợp với nhu cầu của cộng đồng có hiệu quả phải do lãnh đạo địa phương thúc đẩy. Nhưng chính phủ liên bang cũng có thể đóng một vai trò quan trọng. Chính phủ có thể tạo ra một sự thúc đẩy  hướng về tài trợ cho các chương trình như vậy và khuyến khích các tiểu bang và địa phương tham gia vào nhiều thử nghiệm hơn cho phù hợp với các chương trình thành công ở những nơi khác. Do đó, chính quyền Biden có một cơ hội lớn ở đây.

Biden đã hứa sẽ tăng mức lương tối thiểu cho toàn liên bang và khuyến khích công đoàn hoá hơn nữa. Ngoài các biện pháp quan trọng này, kế hoạch của ông chủ yếu dựa vào các ưu đãi thuế. Theo đề xuất của ông, các doanh nghiệp tăng thêm việc làm ở Hoa Kỳ sẽ nhận được ưu tiên giảm thuế, trong khi những doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài và tăng cường nhập khẩu sẽ bị phạt thuế. Ông cũng có ý định tăng kinh phí liên bang đối với các sản xuất hàng hóa cho nhu cầu trong nước và các nghiên cứu và phát triển cho chính phủ.

Các kế hoạch ưu đãi thuế, trang bị và canh tân này dự kiến sẽ tốn kém vài trăm tỷ đô la. Sự gia tăng đáng kể trong các chương trình do địa phương phát triển và quản lý để tạo ra việc làm tốt nếu so ra sẽ là một phần chu cấp nhỏ. Chính quyền Biden nên đi xa hơn nữa bằng cách xây dựng dựa trên những thành công đã được chứng minh của các chương trình như vậy và biến chúng thành nền tảng trong chiến lược tái thiết nước Mỹ của ông.

***


Tác giả Dani Rodrik, Giáo sư Khoa Kinh tế Chính trị Quốc tế tại Trường Công quyền John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard. Ông là tác giả của cuốn sách
Straight Talk on Trade: Ideas for a Sane World Economy.

 

Giới thiệu trang nhà của dịch giả: 

https://kimthemdo.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.