THƠ VÀ ĐÁ
Đá hát
Ngàn thâu
Tóc râu
Ta nhịp
Thơ hát
Đá át
Hồn sa
Bát ngát
****
RẰM
Đá nhập thơ
Nhảy trờ trờ
Trời nguyệt mở
****
VẠN CỔ
Đá chọi thơ
Thơ chọi đá
Sáng mịt mờ
Cõi quá lạ
****
ĐÁ HÁT
Đá ca
Trăng tà
Thiên ma
Bách chiết
Khuya nghe đá hát
Đòn roi thấm rát
Bất tận hồn mơ
Bốc cao tiếng sát
****
MỘNG
Nhà đá
Trăng tà
Vạn cổ
Hồn ta
****
ĐÊM NAY
Qua khe cửa sắt nhà tù
Tôi thấy trăng mù
Nín thở
****
THIÊN CAO
Mây bạc về đâu
Bên trên cửa sổ
Ta đợi ngoài thâu
Chuyến đi quá đắt
****
TRĂNG và MỘNG
Thôi trăng
Đừng vào thăm ta
Mộng đã chín ngoài xa
Vạn dặm
****
BÀI THƠ HY VỌNG
Thơ ca
Không đồng nghĩa
Với kêu la
Trối chết
Đồng hóa
Với trời đất bao la
Thơ ca
Có tiếng la
Từ đó
Từ đó
Giọt lệ phải sa
Cho thiên hà
Lấp ló
****
SAO
Núi sinh ra
Họa hoằn lắm
Mới
Có chỗ mềm
Nhưng
Cũng đủ
Cho kẻ xấu
Ngày đêm
Chê trách
****
TÔI KHÔNG HIỂU
Những trái tim
Trăm năm chao đảo
Nói gì
Với cái đầu
Ngàn năm
Trụ giữa giông bão
****
SỐNG
Cùng với thơ
Chẳng lẽ
Chỉ còn có
Một cách
Là đứng một chân
Trên núi
****
CHIỀU
Gò đống
Ngang qua
Ma
Một lũ
Đang ngồi cú rủ
Không thấy đứa nào hỏi
Trái đất
Mới hay cũ
Dẫu sao thì
Người
Đang sống
Phải nhào với
Ma
Một đống
****
GIỜ ĐỢI HÀNH QUYẾT
Cứ hỏi
Thật
Trời xanh
Khi
Các anh
Chưa bóp cò
Thì
Tự do
Đã gục
****
MAI KIA TỪ GIÃ CÕI ĐỜI
Mai kia từ giã cõi đời
Đừng nghe
Cái cẳng từng rời cái chân
Cái xa nhập với cái gần
Cái lạ lẫm
Cái thiết thân một rồi
Không có đứng
Không có ngồi
Không trên
Không dưới
Bồi hồi là sao
Không nghiệt ngã
Không ngọt ngào
Trần gian trở lại
Ta chào chính ta
*****
Vài dòng tiểu sử nhà thơ Nguyễn Đức Sơn
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ngày 18 tháng 11 năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận. Nguyễn Đức Sơn bắt đầu sáng tác thơ với bút hiệu Sao Trên Rừng. Ông làm thơ rất sớm, xuất bản nhiều tập thơ và truyện ngắn từ đầu thập niên 60 cho tới năm 73. Ông là một trong bốn thi sĩ thường được gọi là “Tứ trụ thi ca” của miền Nam Việt Nam (ba người kia là Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên.) Sơn Núi là tên gọi thân mật khi hàn huyên với bạn bè. Hiện vợ chồng Nguyễn Đức Sơn sống ở đồi Phương Bối, xã Lộc Châu, thành phố Bảo Lộc.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Tập truyện:
- Cát Bụi Mệt Mỏi (An Tiêm, 1968)
- Cái Chuồng Khỉ (An Tiêm, 1969)
- Xóm Chuồng Ngựa (An Tiêm, 1971)
- Ngồi Đợi Ngoài Hành Lang (chưa in)
Thơ:
- Hoa Cô Độc (Mặt Đất, 1965)
- Bọt Nước (Mặt Đất, 1966)
- Lời Ru (Mặt Đất, 1966)
- Đêm Nguyệt Động (An Tiêm, 1967)
- Vọng (An Tiêm, 1972)
- Mộng Du Trên Đỉnh Mùa Xuân (An Tiêm, 1972)
- Tịnh Khẩu (An Tiêm, 1973)
- Du Sỹ Ca (An Tiêm, 1973)
- Thơ và Đá (Văn Học Press, 2019).