Hôm nay,  

"Tháng Tư Đen" - Trò chuyện giữa một cựu mật vụ Hoa Kỳ với tác giả cuốn sách đưa ra Sự Thật về Quân Lực VNCH

11/04/201909:42:00(Xem: 12091)

"Tháng Tư Đen" - Trò chuyện giữa một cựu mật vụ Hoa Kỳ với tác giả cuốn sách đưa ra Sự Thật về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
 

  • Trịnh Bình An chuyển ngữ
  •  

Lời Giới Thiệu: Tháng Tư 1975, khi Tom Glenn một cựu nhân viên mật vụ rời khỏi Việt Nam thì George J. Veith chỉ mới tốt nghiệp trung học Hoa Kỳ. Khi "Jay" Veith rời quân ngũ với cấp bậc Đại Úy binh chủng Thiết Giáp đóng quân tại Đức thì Tom Glenn giành nhiều thì giờ với những bệnh nhân AIDS vì đó là cách giúp ông quên đi những ám ảnh đớn đau từ Việt Nam. Một người già, một người trẻ, cách nhau cả một thế hệ nhưng cả hai có cùng một điểm chung: Việt Nam.

Đối với Tom đó là mảnh đất ông đã để lại một phần thân thể - tai ông bị điếc vì tiếng bom nổ. Đối với Jay đó là mảnh đất chưa bao giờ đặt chân tới nhưng chất chứa quá nhiều thứ bị che dấu. Sau nhiều năm ròng rã tìm hiểu, Jay đã khám phá ra nhiều điều đáng kinh ngạc. Những sự thật lịch sử trong 2 năm cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa được ông trưng ra trong tác phẩm dày trên 600 trang: Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975Tháng Tư Đen: Những Ngày Tháng Cuối Cùng Của Miền Nam Việt Nam, 1973-1975.

Dưới đây, là cuộc phỏng vấn tác giả "Black April" - George J. Veith được thực hiện bởi tác giả "Last of The Annamese" - Tom Glenn, Trịnh Bình An lược dịch.

 
blank

Tom Glenn’s Q&A with George J. Veith on Black April.

George J. Veith, tác giả hai cuốn sách trước đây về Việt Nam, đã hai lần ra điều trần trước Quốc Hội về vấn đề Tù Binh/Quân Nhân Mất Tích. Để biết thêm bài phê bình của Ton Glenn về cuốn Black April, mời truy cập vào địa chỉ dưới đây:

 http://www.washingtonindependentreviewofbooks.com/index.php/features/author-qa-george-j-veith
 

Tom Glenn: Anh đã có 3 cuốn sách viết về [chiến tranh] Việt Nam, thế nhưng anh lại lớn lên khi cuộc chiến đã tàn. Lý do gì anh đam mê đề tài này đến thế?

Jay Veith: Ngay khi tôi chỉ mới là đứa trẻ, tôi đã rất thích thú với hai điều trong lịch sử: những biến cố quân sự và những bí ẩn lịch sử. Do đó, tôi bị thu hút bởi vấn đề Tù Binh/Quân Nhân Mất Tích,  một vấn đề đáp ứng cả hai sở thích của tôi từ lúc nhỏ. Khoảng 20 năm trước, một người bạn biết đến khả năng biên khảo của tôi đã nhờ tôi giúp ông truy tìm một số tài liệu trong căn cứ quân sự Carlisle Barracks tại tiểu bang Pennsylvania. Trong khi lục lạo các hồ sơ trong "Vietnam Room", tôi phát giác ra các bản sao những báo cáo gốc của cơ quan Joint Personnel Recovery Center, một đơn vị được thành lập tại Việt Nam có nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu tù binh Hoa Kỳ. Vậy mà hầu như chưa có tài liệu nào được công bố về đơn vị này, theo như tôi được biết. Và vì luôn bị thôi thúc phải viết, nên tôi đã nhận ra ngay là cuối cùng thì dịp may đã đến với tôi!

blank

(Ghi chú: Hai tác phẩm khác về Việt Nam của Jay Veith: Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War - 1998, và, Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War - 2004)

   

Tom Glenn: Những cuốn sách của anh được viết với cung cách của người có kinh nghiệm trực tiếp. Anh đã từng đến Việt Nam chưa? Anh có nói được tiếng Việt không?

Jay Veith: Tôi chưa bao giờ đến Việt Nam – mặc dù tôi luôn muốn đến thăm nơi ấy. Sau khi dành rất nhiều thì giờ nghiên cứu về chiến tranh [Việt Nam], tôi cảm thấy như đó là quê hương thứ hai của mình! Tôi không nói được tiếng Việt. Tuy nhiên, tôi có một người bạn tốt, ông Merle Pribbenow, là người đã dịch tất cả các tài liệu rất bao quát nầy. Ông Merle từng phục vụ tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn từ tháng Tư, 1970 cho đến ngày 29 Tháng Tư, 1975. Thật may mắn cho tôi vì Merle, cũng như tôi, có một mối quan tâm sâu sắc, trong việc đưa ra ánh sáng những gì đã thực sự xảy ra trong cuộc chiến. Đối với ông ấy, cũng giống như đối với ông, đó là chuyện cá nhân. Còn đối với tôi, đó là chỉ là một bí ẩn lịch sử lớn khác cần được điều tra.
 

Tom Glenn: Nếu anh không nói được tiếng Việt, vậy làm thế nào anh có thể phỏng vấn những người Việt đã trải qua cuộc biến động tại Việt Nam? Anh đã phỏng vấn bao nhiêu người Việt?

Jay Veith: Phỏng vấn những người Việt Nam là một công việc đầy tế nhị, khác hẳn phỏng vấn những người Mỹ. Một khi đã xác định được một sĩ quan người Việt nào bạn muốn nói chuyện, cách tốt nhất là được sự giới thiệu chính thức từ một người hoặc là trong gia đình ruột thịt, hay thuộc "đại gia đình quân đội" (cùng khoá, cùng đơn vị, cùng binh chủng, v.v. ) hoặc từ người đã từng là sếp trực tiếp hoặc từng có cấp bậc cao hơn. Nếu như họ đồng ý cho phỏng vấn, bạn phải đi theo trình tự: giải thích bạn là ai, bạn đang tìm kiếm thông tin gì, và bạn dự định làm gì với thông tin đó. Thường thì tôi bắt đầu bằng cách hỏi họ sinh ra ở đâu, họ vào quân đội như thế nào, v.v ... Sau khi chúng tôi cảm thấy khá thoải mái với nhau, và cũng còn tùy thuộc vào tính khí và khả năng nói tiếng Anh của người ấy, chúng tôi mới có thể đi vào các khía cạnh cụ thể của một trận chiến.

Nếu người được phỏng vấn có trở ngại về tiếng Anh, tôi sẽ yêu cầu họ viết những trải nghiệm của họ bằng tiếng Việt và sau đó tôi nhờ người dịch lại. Cách làm này đạt kết quả rất tốt. Tôi đã phỏng vấn khá nhiều, có lẽ khoảng 45 sĩ quan, từ Đại Tướng Cao Văn Viên – vị Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội miền Nam Việt Nam, xuống đến các tiểu đoàn trưởng. Nhiều người rất cởi mở, họ không chỉ ngạc nhiên khi thấy một người Mỹ quan tâm đến câu chuyện của họ mà còn vui mừng khi tôi muốn tìm hiểu về kinh nghiệm chiến tranh của họ. Tuy nhiên cũng có một số người rất đắn đo trong lời nói. Một số khác thì không thể thuật lại một cách chi tiết vì bị bệnh tật hoặc tinh thần chưa ổn định, hậu quả của nhiều năm tù đày. Còn một số ít, phần nhiều là các sĩ quan cao cấp, đã từ chối nói chuyện.

Đối với tất cả những sĩ quan tôi có dịp tiếp xúc, cuộc phỏng vấn bắt họ phải trải qua những thời khắc vô cùng đau đớn. Tôi không thể nào thể hiện đầy đủ lòng biết ơn với những người ấy. Thật không dễ dàng [khi phải] chứng kiến những người đàn ông luống tuổi - những người từng dạn dày trong chiến đấu, từng khổ nhọc trong tù đày - đã bật khóc khi nói đến sự mất mát đồng đội hoặc sự kết thúc chiến tranh.
 

Tom Glenn: Tôi được biết có hai sĩ quan QLVNCH đã tự sát khi Miền Nam thất thủ. Trường hợp tuẫn tiết như thế có nhiều không?

Jay Veith: Tôi lại biết có tới năm vị tướng đã tự sát. Rất nhiều sĩ quan cấp thấp hơn cũng đã tuẫn tiết.

Một câu chuyện không được ghi lại trong sách (Black April) nhưng luôn ám ảnh tôi. Tôi đang phỏng vấn một tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn Nhảy Dù, lúc ấy là khoảng 1 giờ sáng, và chúng tôi đang ngồi trên bậc thềm trước nhà anh ta. Chúng tôi gần xong câu chuyện thì anh chợt bắt đầu kể về ngày cuối cùng [của cuộc chiến]. Anh cho biết vào đêm 29 tháng Tư, vị lữ đoàn trưởng của anh đã ra lệnh cho đơn vị anh phải yểm trợ để bảo vệ căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt. Vi lữ đoàn trưởng đã năn nỉ anh đừng bỏ rơi ông ấy. Vì vậy, khi anh tiểu đoàn trưởng này bắt đầu rời khỏi căn cứ để đảm nhiệm việc phòng thủ bên ngoài vành đai, anh đã hết sức phân vân giữa hai lựa chọn: Hoặc khi ra khỏi cổng căn cứ thì rẽ phải để đi đến các vị trí được chỉ định. Hoặc rẽ trái và đi về phía bến cảng, tại đó anh hy vọng gặp được một tàu Hải Quân đang thoát chạy ra khơi. Và người sĩ quan ấy đã chọn… rẽ phải, chọn ở lại với nhiệm vụ được giao phó.

Cuối ngày hôm sau, sau khi nghe lệnh đầu hàng, anh nhận được tin qua máy truyền tin từ một đồng đội cho biết họ đang rút lui đến một tòa nhà trong căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt. Do dự vài phút, nhưng rồi anh cũng lái xe jeep đến nơi tập họp. Nhưng đúng lúc anh vừa tới nơi thì nghe thấy một tiếng nổ khủng khiếp làm rung chuyển cả tòa nhà. Rất nhiều đồng đội của anh đã tự sát trong đó. Anh chấm dứt câu chuyện, mắt anh đẫm lệ. Còn tôi, lặng im mà xúc động đến run cả người.

Nghe xong câu chuyện ấy chúng ta còn điều gì để nói nữa? Và điều tệ nhất ở đây là, do hậu quả của việc rẽ phải thay vì rẽ trái - để làm tròn nhiệm vụ và không bỏ rơi những người lính cũng như người chỉ huy - người sĩ quan ấy đã phải ngồi tù 10 năm!

 
blank

Tom Glenn: "Tháng Tư Đen" đưa ra những câu trả lời thỏa đáng cho rất nhiều câu hỏi của tôi về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam. Vậy, còn có những câu hỏi nào anh cảm thấy vẫn cần có câu trả lời?

Jay Veith: Câu hỏi chính sẽ xoay quanh những gì Bộ Chính Trị [Bắc Việt] đã thực sự toan tính ngay trước và ngay sau khi ký kết Hiệp Định Hòa Bình Paris. Vẫn còn một lỗ hổng khá lớn trong sách vở Việt Nam về khoảng thời gian này. Đối với số câu hỏi khác, ông sẽ phải đợi cho đến khi tập thứ hai của tôi ra đời! Cuốn sách này sẽ đề cập đến các mưu đồ chính trị và ngoại giao.
 

Tom Glenn: Vì lý do nghề nghiệp, tôi chú ý tới vai trò của sự lừa bịp về mặt tình báo truyền tin và truyền thông trong trận chiến cuối cùng. Theo anh, tầm quan trọng của mỗi yếu tố như thế nào?

Jay Veith: Chiến lược của Cộng Sản cho mỗi chiến dịch bao gồm các kế hoạch lừa dối công phu. Hầu hết các kế hoạch này là nhằm đánh lừa tình báo truyền tin của Mỹ và QLVNCH mà trong chiến tranh có lẽ là nguồn tin tình báo tốt nhất của chúng ta. Tuy nhiên, có những ý kiến khác nhau về việc Cộng Sản có thành công hay không. Tại Ban Mê Thuột, chắc hẳn nó đã đóng một vai trò quan trọng, ít ra trong việc khiến cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú tin rằng quân đội Bắc Việt sẽ tấn công vào Pleiku chứ không phải vào Ban Mê Thuột. Với Quân Đoàn I, tôi nghĩ đó là một thất bại hoàn toàn. Câu hỏi lớn hơn, hy vọng một ngày nào đó Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (National Security Agency - NSA) sẽ trả lời, là họ và tình báo tuyền tin của miền Nam thực sự đã biết tới mức nào. Tôi cho rằng điều đó phù hợp với câu hỏi của ông về những gì vẫn còn cần câu trả lời.
 

Tom Glenn: Trong số rất nhiều câu chuyện buồn về những người phải cam chịu thất bại, câu chuyện nào khiến anh xúc động nhất?

Jay Veith: Những chuyện xúc động thì quá nhiều. Câu chuyện người sĩ quan mà tôi vừa kể là buồn nhất. Sau đó, anh ấy nói với tôi là khi còn ở trong trại tù Cộng sản, anh đã phải ăn gián để sống. Một nguồn protein tốt, anh còn nói thế. Tôi hỏi anh đã ăn bao nhiêu con gián? Chắc cỡ 10 ngàn con, anh trả lời. Hãy thử tưởng tượng mình phải bỏ con gián vào miệng! Tôi còn nhớ tới một vị chỉ huy tiểu đoàn khác, lần này là một sĩ quan Biệt Động Quân, anh nói với tôi rằng cha mẹ anh đã phải trông chừng anh liên tục từ ngày có lệnh đầu hàng cho đến khi anh phải trình diện đi tù. Họ sợ anh sẽ tự tử vì quá tuyệt vọng.
 

Tom Glenn: Tôi thấy nhiều điểm tương đồng giữa Việt Nam và Iraq và đặc biệt là Afghanistan. Có đúng thế không?

Jay Veith: Không hẳn vậy. Kẻ thù hoàn toàn khác, trật tự chính trị thế giới đã được định hình lại hoàn toàn, và người ta không thấy thái độ chống chiến tranh gay gắt xảy ra trong chiến tranh [Iraq]. Nếu nhìn rộng hơn ra, tôi cho rằng người ta có thể rút ra sự tương đồng về một cuộc chiến bất khả chiến thắng, v.v., nhưng tôi không cho rằng các viễn kiến lịch sử là tương tự nhau.
 

Tom Glenn: Tháng Tư Đen là cuốn sách đầu tiên của một bộ hai tập. Vậy, chủ đề của cuốn sách thứ hai là gì? Bao giờ thì sách được xuất bản?

Jay Veith: Cuốn thứ hai sẽ đề cập tới các vấn đề chính trị, ngoại giao và kinh tế làm Nam Việt Nam sụp đổ. Cụ thể, sách sẽ thảo luận về các mưu mô ngoại giao trong những ngày cuối khi các quốc gia cố gắng dàn xếp một lệnh ngừng bắn. Ngoài ra, sách sẽ nói tới một câu chuyện có lẽ là bí mật lớn cuối cùng của Chiến Tranh Việt Nam. Còn khi nào nó sẽ được xuất bản thì xin để cho tôi thêm vài năm. Việc nghiên cứu coi như đã xong, tôi chỉ cần tìm thời gian để viết. (Ghi chú: Jay Veith quyết định nghỉ việc vào tháng Năm 2018 để dành toàn thời gian cho sách – TBA)
 

Tom Glenn: Trong tất cả các yếu tố dẫn đến sự sụp đổ của Nam Việt Nam, điều gì nghiêm trọng nhất? Chúng ta có thể tránh được điều ấy không?

Jay Veith: Đúng, chúng ta có thể tránh đươc. Nhưng nó đòi hỏi một nỗ lực bền bỉ về ý chí và sự tham gia của người Mỹ, là những yếu tố mà chúng ta sẽ rất khó khăn để duy trì.
 

Tom Glenn: Nếu tất cả hỏa lực, nhân lực và tài nguyên mà Hoa Kỳ mang đến không thể chiến thắng cuộc chiến chống lại Bắc Việt, tại sao chúng ta nghĩ rằng chỉ riêng Nam Việt Nam có thể làm nổi điều đó? Kế hoạch Việt Nam Hóa (đào tạo và trang bị cho Nam Việt Nam tiếp tục chiến đấu mà không có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường) có tác dụng gì không?

Jay Veith: "Việt Nam Hóa" đã có tác dụng. Tuy nhiên, không có tướng lãnh Hoa Kỳ hay Nam Việt Nam nào tin rằng đất nước này có thể đứng vững nếu không có đầy đủ sự yểm trợ của Không Quân Mỹ. Lý do đơn giản là vì địa hình Việt Nam, chứ không phải vì sự thiếu ý chí của Nam Việt Nam. Tôi sẽ trình bày chính xác hơn trong cuốn sách tiếp theo của tôi. Nhìn bên ngoài, tình hình tiếp tế của Bắc Quân có vẻ rất tốt. Nhưng có điều ít ai biết hay hiểu ra, đó không phải là do Trung Cộng và Nga Xô chi viện ào ạt mà là do Bắc Việt đã dốc tất cả kho vũ khí của họ ra. Nói một cách khác, họ đánh xả láng cú chót để giành chiến thắng. Thật không may, lần này họ đã đoán đúng. Tôi chỉ mới phát hiện ra điều này trong khi xem xét một số ấn phẩm mới của Cộng Sản. Cho ông biết trước một chút xíu thôi đấy nhé.
 

Tom Glenn: Một số người tin rằng nỗ lực chống cộng ở Việt Nam đã bất khả thi ngay từ đầu. Chiến thắng của Bắc Việt [có phải] là đương nhiên không?

Jay Veith: Không đúng. Nếu chúng ta quyết định cắt đường mòn Hồ Chí Minh bằng quân đội Hoa Kỳ, tôi tin rằng chúng ra đã có thể thắng cuộc chiến. Sau khi Hải Quân cắt đứt nguồn tiếp tế trên biển, và nếu chúng ta phong tỏa cảng Sihanoukville (Cambodia), thì "cách mạng" tại Nam Việt Nam không còn nguồn cung cấp nữa, do đó, về căn bản, sẽ thoái hóa thành một cuộc chiến tranh du kích lẻ tẻ, một cuộc chiến mà người miền Nam có thể cáng đáng được.
 

Tom Glenn: Vậy thì với những điều bây giờ chúng ta đã biết, liệu Hoa Kỳ khi đó có nên nhúng tay vào Việt Nam không? Một câu hỏi cực kỳ tế nhị cho anh trả lời đấy.

Jay Veith: Tôi sẽ phải tránh né câu hỏi nầy bằng cách yêu cầu ông suy nghĩ như sau. Một trăm năm nữa, khi các học giả viết lịch sử của nước Mỹ và thế giới trong thế kỷ 20, chẳng biết họ sẽ định nghĩa cuộc sống Mỹ vào thời kỳ này như thế nào? Họ sẽ nhập chung thời kỳ hậu Đệ Nhị Thế Chiến với một khoảng thời gian dài hơn sau đó, và mô tả thời kỳ đó là một cuộc chiến dài chống lại chủ nghĩa Cộng Sản chăng? Nếu vậy, ai đã thắng cuộc chiến đó? Nếu nhìn từ góc độ lịch sử lâu dài hơn, tôi nghĩ mọi người cuối cùng sẽ đánh giá Việt Nam một cách không thiên vị hơn.

 

***

blank
Ghi chú về tác giả Tom Glenn:

Tiểu thuyết về Việt Nam của ông có tên "Last of the Annamese". Tác phẩm kể câu chuyện của một sĩ quan Quân Lực VNCH và người vợ tận tụy. Cả hai đã cùng tuẫn tiết tháng Tư 1975. Xoay quanh họ là hình ảnh đau thương của một Nam Việt Nam bị bức tử.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.