Hôm nay,  

VÔ ĐỀ

24/01/201915:40:00(Xem: 4927)

VÔ ĐỀ

 

Nguyễn Văn Sâm

 

Cho hương hồn bạn, nhà biên khảo sử TĐPhong.

 

Ngữ cặp nách cái bao thơ đựng bản thảo mới in hồi tối, cầm lo le ly cà phê bước ra khỏi tiệm.  Thói quen thường ngày của Ngữ là vô Starbucks mua một ly Cappuccino, kiếm chỗ ngồi xuống ở một cái ghế sofa nào đó trống, nhắm nháp từng chút từng chút, thưởng thức chầm chậm hương vị thơm tho đặc biệt của loại cà phê nầy rồi đứng dậy lững thững ra cửa khi ly còn độ nửa phần.  Gió buốt tháng cuối đông thổi ù ù lạnh cắt tai như thì thầm rủ gọi về nơi miên viễn.  Ngữ rùng mình kéo cao cổ áo hơn, co ro bước lần đến chỗ đậu xe.  Như là hơi choáng váng, như nghe đâu đó đau đau nhè nhẹ trên nửa đỉnh đầu bên mặt.  Đứng lại một phút để định thần và nín thở để cơn đau lướt qua.  Chẳng biết có gì quan trọng không mà chuyện bực mình nầy xảy ra hoài hoài, khám bệnh với biết bao thử nghiệm chẳng thấy gì, mất thời giờ mà triệu chứng trở đi trở lại hằng xuyên như những lời quảng cáo rao hàng trên mấy đài phát thanh địa phương lúc nầy nở rộ trên khắp đất nước định cư.

Ngữ nói với căn bịnh bằng cái mỉm cười hơi meo méo miệng:

“Mầy đã lớn, đã ngon lành thì hiện ra đi, chớ mờ ớ ẩn ẩn hiện hiện tao chán quá rồi, chắc tại hồi tối tao nhâm nhi mấy ly rượu với ba con tôm khô cũ mốc để từ thời cố Hỉ cố Lai tới giờ chứ gì?”

Lại có cơn đau nữa nhoi nhói.  Ngữ tiếp:

“Hay là tại ăn uống mỡ mòng, lòng heo, lòng gà bao nhiêu năm trước khi qua đây?  Lâu rồi bạn ơi, bỏ qua đi Tám.” Ngữ cố tình khôi hài với căn bịnh của mình.

Có tiếng ai đó hỏi trước mặt:

“Sao nói lẩm bẩm một mình vậy chàng, uống cà-phê mà cầm ra ngoài trời lạnh còn đâu là hương vị?”

“Muốn vào lại không, trong đó còn cái sofa trống, tao thích ngồi chỗ đó hơn.”

“Nghe nói độ rày mầy buồn lắm, tới độ chán đời lận, vậy mà còn chọn chỗ ngồi nữa sao?  Thôi vô lại nói chuyện đời chút chút chơi.”

Hai người bạn ngồi yên, nhìn bâng quơ ra ngoài cửa kính, tôn trọng sự suy nghĩ của nhau.

Chừng mười phút, Ngữ phá tan bầu không khí quá tĩnh lặng:

“Nói tao chán đời là sai.  Tao vẫn yêu đời, vẫn còn sẵn sàng đón nhận những thực phẩm của trời đất, vẫn chia sẽ vui buồn của cuộc đời với người chung quanh, vẫn làm tròn bổn phận với các thành viên của gia đình.  Nhưng hơn một năm nay tao không còn tha thiết với chính đời sống nầy nữa cũng như không thấy quí cái con người của tao nữa.  Nó lạnh băng nằm đó, hay hóa hư không cũng chẳng còn quan trọng gì.”

Đôi mắt thằng bạn ngạc nhiên mở to chăm chú nhìn Ngữ.

“Nghĩa là tao cảm nhận cái chết chẳng có gì đáng sợ hải và sự hiện hữu của cá nhân anh chàng Ngữ bằng xương bằng thịt được cái tâm linh vô ảnh gọi là Ngữ đón nhận một cách hững hờ, băng giá.”

“Mầy làm cho cuộc đời rắc rối ra thêm.  Cá nhân bằng xương thịt và tâm linh vô ảnh phải kết hợp làm một mầy mới hiện hữu, mới hoạt động được.  Không có chuyện tách ra làm hai của hai thứ nầy đau con, đừng nghèo mà ham.” Một cái cười phá hơi lớn như khỏa lấp câu chuyện đang có vẽ nặng nề.  “Ông đi đàng ông, bà đi đàng bà là không có tui à nhe!”

“Có thể tao không lý giải được tâm trạng mình nhưng tao dửng dưng và vô cảm với sự chết sống.  Hồi đó nghe những chuyện tự kết thúc đời cách đặc biệt như Ernest Hemingway của Mỹ, Kawabata  của Nhật, gần đây nghe Keven Carter của Nam Phi, Nguyễn Tất Nhiên của Việt Nam tao nghĩ là mấy ông văn nghệ sĩ nầy vô lý bỏ mẹ, nhà văn nhà thơ, nhà nhiếp ảnh nghệ thuật mà, mầy biết đó, lộn xộn rắc rối kinh khủng, họ có những ý nghĩ khác thường lắm, giờ mới thấy họ có cái lý mà mình không thông hiểu được.”

Ngữ đổi tư thế ngồi, đưa chưn thẳng ra trước mặt, thoải mái chờ đợi một câu hỏi.  Người bạn húp một ngụm chocolate nóng, ngó đăm đăm vô mắt Ngữ:

“Cuộc đời nầy luôn luôn có lý và quí giá đối với đa số chúng sanh, nhưng tới lúc nào đó, đối với một cá nhân đặc biệt nào đó, chẳng đáng một đồng xu teng.  Phải không?”

Ngữ mỉm cười gật đầu, nói nhỏ:

“Nhưng tao không đặc biệt!”

Người bạn đổi giọng thân mật và nghiêm chỉnh:

 “Làm bác sĩ mình không giải quyết được ý tưởng khác thường của cậu, nhưng mình nghĩ cậu có bịnh gì đó cậu dấu thin thít không nói ra cho anh em.  Cũng có thể cậu đang bị bịnh … xuống tinh thần, bệnh trầm cảm.  Đây cũng là một thứ bịnh cần bác sĩ chuyên môn chẩn đoán.  Phòng mạch mình luôn luôn mở cửa đối với bạn bè, hôm nào hưỡn huỡn bạn ghé tới.  Lựa lúc hơi chiều chiều tụi mình đi ăn cơm luôn.  Đừng để lâu không tốt.”

Ngữ xiết chặt cái bàn tay mập tròn và trắng trẻo của bạn thay lời cảm ơn.  Anh nói trong khi từ tốn mở cái bao thơ đựng bản thảo nãy giờ để trên đùi:

“Thôi chuyển đề tài!  Khoe với mầy đứa con tinh thần mới của tao, sắp hoàn thành chỉ còn chương cuối và kết luận ngăn ngắn là xong.”

Người bạn nhìn sơ qua cái tựa, lật lướt vài trang, đọc đứt khoảng thật mau, nói:

“Nhân vật lịch sử nầy cần phải được những người như mầy viết để sự thật về biến cố đau thương vừa qua được đánh giá đúng mức.”

“Tao say mê đề tài nầy nhưng viết rồi lại sợ.  Sợ ý nghĩ của mình nổ ra những tranh luận vô ích.  Xưa còn trẻ viết nhiều khi không cần đọc lại và hãnh diện vì điều ngang ngạnh đó, bây giờ lớn tuổi rồi đâm ra sợ chính những điều mình viết.  Sợ lắm mà cái nghiệp nó bắt cứ viết hoài.”

Chia tay bạn, Ngữ loay hoay với ý nghĩa mình đang bị bịnh xuống tinh thần, một căn bịnh tâm lý do cuộc sống quá nhiều chuyện thị phi không đâu kéo tới hằng ngày.  Anh lý luận với chính mình, mình có lo lắng gì đâu, đã gọi là dửng dưng làm sao có lo lắng, còn nói chuyện cười vui bình thường sao gọi là trầm cảm được?  Và Ngữ lúc lắc đầu như muốn xua đi những điều lẩm cẩm… Anh đong đưa gói bánh ngọt người bạn nài nỉ cầm về để ăn buổi xế xế trưa khi buồn miệng.

Một người da trắng râu quai nón, cao lỏng khỏng bước tới xe trước khi cửa được mở, ông ta mỉm cười đau khổ khi Ngữ ngừng tay lại.  Ngữ lên tiếng trước:

“Chào anh, trời lạnh ha!  Mấy hôm nay trời lạnh đột ngột quá!”

Lại cái cười làm thân như thường thấy của những người chưa quen.

“Lạnh thì có lạnh, nhưng lạnh bên trong lòng kẻ không nhà tê tái hơn nhiều.” Anh ta vừa nói vừa ngó chăm chăm ly cà phê trên tay Ngữ. 

“Xin lỗi, tôi uống dang dở, bạn có thể dùng mấy cái nầy.” Ngữ đưa nguyên gói bánh cho người không nhà.  “Lạnh quá chớ không thì tôi đi vào mua ly khác cho bạn.”

“Tôi là Cựu Chiến binh Mỹ ở Việt Nam, Từng đóng ở Cat Lo, Vung Tau.  Có nhiều kỷ niệm thời trẻ của tôi với cái xứ dễ thương của anh….”

“Chúng ta là những người đã tham dự một cuộc chiến kỳ quặc, anh thấy đó, đất nước tôi đến bây giờ vẫn chưa khá gì hơn xưa.”

Ngữ lục lọi trong túi mấy tờ giấy bạc nhăn nhíu, tránh móc bóp trước mặt người lạ.

“Anh bạn cầm đỡ vui mùa Christmas nầy.  Chỉ được có bấy nhiêu vì tôi cũng chẳng may mắn gì hơn bạn lắm đâu.”

Người đàn ông râu quai nón tiếp lấy tiền, bàn tay run run vì cảm động.

“Cám ơn ông, ông dễ tin người quá, đứng nói chuyên thân mật kiểu nầy ông có thể bị nguy hiểm như chơi.”

Ngữ mở cửa xe, leo lên chỗ ngồi, quay cửa xuống nói ra, giọng thiệt vui:

 “Vậy đó, tôi thà bị nguy hiểm hơn là bỏ lỡ dip giúp một người mình có thể giúp.”

Hai người vẫy tay như đôi bạn thân thiết lâu ngày.  Ngữ quay kiếng xe lên, ngó theo cử chỉ co ro của người kia vừa đi vừa thưởng thức cái bánh của mình mà thấy thơ thới trong lòng, cảm giác thanh thản trước những hành vi thiệt bình thường của cuộc sống.  Trong kiếng chiếu hậu Ngữ thấy anh ta còn cố quay người lại để chào lần nữa bằng cánh tay cầm gói bánh giơ lên cao và giọng hét thiệt lớn như muốn át đi tiếng gió: “Chào ông Già Noel, chúc ông Già Noel vui….”

Ngữ chép miệng:

“Cám ơn thực phẩm của đời.”

 

Mở mắt ra Ngữ thấy mình nằm ở chỗ lạ.  Chỉ nhớ được là mình đã té lúc sáng sớm khi thức dậy đi tiểu vài lần như mọi đêm.  Cái té chẳng khác trời giáng và anh nằm mẹp dưới đất luôn, Bà ấy dắt con Ki đi ra công viên sớm, lúc ấy kêu cứu cũng chẳng có ai ở nhà.  Bây giờ thức giấc thấy mình nằm trong một căn phòng hơi xập xệ như là một nhà thương dưỡng lão.  Cùng phòng có cái giường của một ông già cũng dây nhợ chằng chịt như mình.  Đầu óc tỉnh táo, Ngữ đảo mắt quan sát tuy hơi chóng mặt một chút.  Cố gắng nhúc nhích cái đầu qua một bên để nhìn rõ hơn chung quanh nhưng không thể được.  Thử ễnh ngực hay chuyển động phần bụng cho đỡ mỏi cũng không xong.  Ngó xuống chưn thì thấy bít bùng, thử nhúc nhích bàn chưn thì cứng ngắc như thân thể tạc bằng đá.  Chỉ có bắp thịt mặt và hai bàn tay là còn cử động chút chút được thôi. 

Những người của gia đình ông già nằm giường bên tưởng Ngữ mê man nên mặc sức bàn tán cò kè nhau về số tiền bảo hiểm sẽ nhận được.  Ngữ nghe mà ngao ngán, muốn tỉnh dậy để khám phá thêm nữa những thực phẩm chua chát của đời.

Con chị lớn cong cớn nói với đứa em Út vốn lâu nay nuôi cha mình:

“Mầy lấy tiền già của ổng mầy đóng tiền bảo hiểm thì tiền nhận được ít nhứt phải chia cho ba chị em mình, sao mầy đòi lấy hết?  Mầy giàu mà còn tham.”

“Tôi phải nuôi ổng mấy năm nay, vợ con cằn nhằn cực khổ biết là bao nhiêu, tiền đóng bảo hiểm đó là tiền của tôi bỏ ra vì tiền già của ổng bỏ vô chi phí ăn uống, thuốc men và đưa ổng gởi về Việt Nam cho má và bà con.  Bộ chị tưởng tám trăm hằng tháng đủ sao chớ?  Hồi đó giao cho chị nuôi chị lấy tiền đó sao không chịu lãnh?”

Tiếng người khác, như là người anh của thằng Út:

“Mầy nói vậy mà nghe được sao, cha là cha chung thì tiền bảo hiểm của ổng là của chung phải chia ba mới công bình.  Mầy làm bác sĩ giàu quá rồi còn đòi lấy hết coi sao được.”

“Giàu thì sao, tôi học là tiền vay nợ chứ đâu có học bằng tiền của ba đâu, khá chút đỉnh là nhờ bên nhà vợ, hồi đó ba giàu nuôi mấy người ăn học, không lo học bây giờ than nghèo, khó nghe quá…”

Ông già chợt trở mình, thở hắt ra, cái máy chỉ nhịp đập tim của ông bây giờ biểu diễn một lằn xanh dài nằm ngang, tiếng bip bip cũng êm ru….

Cuộc cãi vã xào xáo tạm tan, còn lại là sự ồn ào của tiếng khóc than không nhiều tình cảm.  Ngữ nhắm mắt giả tình không hay biết gì về hoạt cảnh chung quanh.

 

Tôi bỗng nhiên thấy mình muốn sống hết sức.  Hình như tôi chưa biết tình đời kỳ khôi như vậy của ba chị em trong một gia đình mà người nào người nấy cũng lớn hết, cũng thành nhơn chi mỹ hết.  Lỗ mũi ngứa quá muốn đưa tay lên gãi mà dòm lại thì thấy tay mình không nhúc nhích được.  Tôi nhắm mắt, vận dụng hết sức bình sanh để điều khiển bàn tay, nó cũng trơ trơ, chắc là tôi bị liệt toàn thân rồi.  Cổ họng khô rang, khát nước như đương đi trong sa mạc và đói bụng quá chừng.  Đói còn hơn lúc linh đinh ba bốn ngày trên biển cả.

Tôi nhớ lại ông bà mình nói người sắp chết thường khao khát sống, hiện tôi muốn sống quá chừng qua đỗi đi.  Phải cầu Phật Bà Quan Âm, Phật Tổ độ cho tôi đươc sống.  Tôi chưa hiểu hết cuộc đời nầy mà.  Chiến trận.  Tù đày.  Nhục nhã.  Đạp xích lô.  Vợ bỏ.  Con bỏ.  Tôi nhớ hết từng chuyện từng chuyện với thiệt là đầy đủ chi tiết như có khúc phim video chiếu chậm trong đầu.  Nghe văng vẳng người bạn nói “buông xả, buông xả, đừng nhớ chuyện cũ, nhứt là chuyện đau khổ thù hằn”.  Tôi nhắm mắt lại một lúc thiệt lâu.  Nhớ đến những chuyện mình làm tốt.  Cứu đồng đội.  Giúp người khổ nạn.  Sống chết hết mình với bạn đồng thuyền trên biển cả.  Hỗ trợ cho bạn bè thất cơ lỡ vận…Tiếng người bạn tiếp tục: “Buông xả, buông xả, cũng đừng nghĩ tới đến chuyện mình làm tốt ngày trước nữa vì càng nghĩ nhớ thì hồn linh càng bám víu vào đời.” Như là người bạn hát nho nhỏ bài ca chúng tôi rất thích hồi đó, lâu lắm rồi.  Tôi đưa tay lên tắt bài hát….

 

Ngữ mở mắt ra thì thấy mình đương ở phòng khác, người nhà và bạn bè đứng lố nhố quanh giường, không có vợ Ngữ, chỉ có thằng bạn thân.  Người bạn nắm tay Ngữ thân thiết, bịnh nhân cảm giác mình sắp chảy nước mắt.  Người bạn hỏi:

“Biết ai đây không?”

Tiếng trả lời không biến thanh và phát ra với đầy đủ yếu tố tình cảm chứa trong ngôn ngữ nhưng thiệt yếu như mỏn hơi, gần sát bên mới nghe được. 

“Phòng mạch đóng cửa sớm đi thăm bạn hả?”

Người bạn bóp tay Ngữ như từng được bóp cách nay ba tháng trong tiệm cà phê Starkbucks, cười gượng gạo:

“Vậy là cậu ngon lành rồi, rán tỉnh lại để viết cho xong quyển sách đi nhe, mọi người chờ đó.  Cậu viết được lắm.  Số một!”

“Còn bốn quyển nữa chứ không phải chỉ có quyển đó thôi.”

Người bạn buông tay Ngữ ra, xoa xoa dài theo cánh tay trần của Ngữ, mắt nhìn thẳng vào mắt anh lúc nầy đã từ từ nhắm lại, gương mặt xanh xao thất thần.

“Cậu nói với tôi đi, cậu muốn gì, điều cần nhứt là phải thanh thản, buông xả, buông xả.  Đừng nghĩ ngợi lung tung.  Đừng nghĩ tới hận thù hay điều bất hạnh trong đời.”

Người bịnh mấp máy đôi môi, tiếng nói đã biến âm và rất nhỏ, thì thào xa xăm…

“Khát nước và đói bụng lắm cậu à.  Mình chắc sẽ đi vì đói khát.  Buồn ghê!”

“Cậu không nên nói vậy, nên nghĩ đến những điều đã làm tốt trong đời.  Nhân duyên tốt được gợi về làm cho tâm thức mình phấn chấn hơn, nhiều khi bịnh lại lui.”

Ngữ nhớ tới những lúc giúp người, những khi xả thân và lúc dốc túi mình vì người thiên hạ không quen.  Anh thấy thanh thản tuy rằng khát nước quá độ.  Anh thiếp đi, bàn tay trơ trơ trong tay người bạn, cố nói câu: tôi không biết mình đương ham sống hay đương buông đời sống.  Nhưng tiếng nói không phát ra được, mắt anh nhắm nghiền mệt mỏi thiệt là mệt mỏi.  Người bạn áp mặt mình sát tai Ngữ nói buông xả, buông xả rồi hát nho nho:  

Hãy nói về cuộc đời.

Khi tôi không còn nữa.

Sẽ lấy được những gì.

Về bên kia thế giới,

Ngoài trống vắng mà thôi,

Ngữ ơi và tình ơi.[1]

Có tiếng đàn bà hơi lớn giọng trước phòng.  Người bạn đứng dậy, thở dài, im lặng bước ra, rửa tay bằng chất tẩy trùng được gắn gần bên cửa ra vào.  Vô tình anh thấy tấm bảng dán ở đây bằng hai thứ tiếng mà lúc vào vô ý chẳng thấy:

“Vì sức khỏe của bệnh nhân, xin bà con bè bạn đừng vào phòng.”

Người bạn chợt húng hắng ho, anh nhìn hàng cây xơ xác trước cổng bệnh viện, gió đông lạnh thổi bay trần trụi thêm những chiếc lá trên cành vốn đã lơ thơ…. 

Nguyễn Văn Sâm

San Jose, CA, Dec. 10-22, 2009

(Những ngày buồn thế sự)


 



[1] Thơ Du Tử Lê, nhạc Anh Bằng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.