Hỏi (BàTrần T.D): Chúng tôi lập gia đình tại Úc, tính đến nay được hơn 10 năm. Chúng tôi chỉ có một bé trai 8 tuổi. Sau khi bị thương tật tại hãng, chồng tôi nhận được một số tiền bồi thường.
Từ đó chồng tôi chán nản, thường đi club bấm máy. Năm Ngoái chúng tôi có về Việt Nam thăm gia đình, và gần đây chồng tôi lại trở về Việt Nam vì có người em bị thương nặng vì tai nạn xe cộ. Sau khi trở về lại Úc, tính tình ông ta hoàn toàn thay đổi, và ông ta muốn ly dị.
Thực ra chúng tôi sống chung nhà nhưng không còn xem nhau như vợ chồng kể từ năm 2002 khi ông ta ngưng làm việc và mê bài bạc.
Xin LS cho biết là tôi có quyền nộp đơn xin ly dị chồng tôi trong trường hợp chúng tôi ly thân nhưng vẫn sống cùng nhà hay không"
Trả lời: Điều 49(2) của “Đạo Luật Gia Đình 1975” (the Family Law Act 1975) quy định rằng: “Các bên hôn phối có thể được xem là đã ly thân và đã sống một cách phân ly và tách biệt tuy rằng họ vẫn tiếp tục cư ngụ cùng nhà hoặc một bên đương sự đã làm một số công việc nhà cho đương sự kia.”
“Trong vụ Hôn Nhân của Falk (1977). Trong vụ đó, hai vợ chồng đã kết hôn vào năm 1956, và đã sống cùng nhà từ năm 1959. Họ có chung với nhau 5 người con. Sau nhiều năm xích mích trong đời sống hôn nhân, người vợ đã dọn ra khỏi phòng của người chồng vào tháng 3 năm 1975, và từ đó họ không còn quan hệ ái ân và không có đời sống xã hội chung với nhau nữa. Người vợ tiếp tục nấu nướng và làm việc nhà; người chồng trả hầu hết các chi phí và cũng trao cho người vợ $70 mỗi tuần cho những chi phí trong nhà.
Vào tháng 8 năm 1976, người vợ nộp đơn xin ly dị. Vào tháng 12 năm 1976 đơn xin ly dị đã bị tòa bác bỏ. Người vợ bèn kháng án.
Tòa đã tuyên bố rằng khi các bên đương sự tiếp tục cư ngụ cùng nhà nhưng một hoặc cả hai người cho rằng họ đã ly thân kể từ một thời điểm nào đó, thì vẫn không có sự khó khăn nào về việc chấp nhận rằng các bên đương sự ‘đã ly thân’ mặc dầu không có sự bỏ đi của một trong hai người khỏi căn nhà mà họ đã cùng cư ngụ trước đây.
Tòa cho rằng ly thân thực ra có nghĩa là từ bỏ tình trạng của sự việc hơn là từ bỏ một nơi chốn đặc biệt nào đó. Cuối cùng tòa đã chấp nhận cho ly dị.
Có những trường hợp các bên phối ngẫu vẫn tiếp tục sống chung cùng nhà, và thỉnh thoảng vẫn giúp nhau làm những công việc nhà, tuy thế họ vẫn được công nhận là đã sống ly thân theo sự quy định của Đạo Luật Gia Đình, như đã được xét xử trong vụ Hôn Nhân của Potter khi tòa cho rằng: Vấn đề một trong hai bên đương sự thỉnh thoảng giúp đỡ cho nhau không có nghĩa là họ không ly thân theo sự quy định của Luật Gia Đình.
Trong vụ Hôn Nhân của Hodges, người vợ đã lo cơm nước cho người chồng, và cả hai vợ chồng thỉnh thoảng ngồi ăn chung với nhau cùng con cái trong gia đình. Ngoài ra, người vợ đã giặt áo quần cho người chồng và làm những việc nhà, và người chồng đã trả tiền cho người vợ để làm những việc nhà đó. Tuy nhiên, các bên phối ngẫu đã ngủ riêng phòng, không có quan hệ ái ân, và không có những sinh hoạt về đời sống xã hội chung. Vì thế, tòa đã cho rằng các bên hôn phối đã sống ly thân theo sự quy định của điều 48 khoản (2) của Đạo Luật Gia Đình và tòa đã chấp nhận cho ly dị.
Nếu các bên phối ngẫu vẫn sống chung cùng nhà trong thời gian ly thân, thì họ có nhiệm vụ phải giải thích cho tòa về tình trạng của sự ly thân đó, như đã được quyết định “trong vụ Hôn Nhân của Pavey.” Trong vụ đó tòa đã tuyên bố rằng: Các bên phối ngẫu phải giải thích về tình trạng ly thân, vì nếu không có sự giải thích đầy đủ về tình trạng ly thân, thì không có sự đổ vỡ về hôn nhân, vì sự ở chung nhà cho thấy các bên đương sự vẫn tiếp tục sống chung. … bên phối ngẫu cho rằng là họ đang sống ly thân phải thỏa mãn cho tòa về điều đó bằng cách giải thích lý do tại sao các bên đương sự vẫn tiếp tục sống chung nhà, và phải chứng minh là có sự thay đổi trong quan hệ của họ và sự thay đổi đó đã cấu thành sự ly thân.
Nếu các bên đương sự cho rằng họ phải sống chung cùng nhà vì tương lai của con cái, thì điều này về phương diện lý thuyết có thể được xem như là không có sự đổ vỡ về hôn nhân. Tuy nhiên, tùy theo trường hợp, tòa vẫn chấp nhận cho các bên đương sự ly dị như đã được xét xử trong vụ hôn nhân của Pavey, khi người vợ cho rằng lý do mà bà ta vẫn sống chung vì muốn các đứa con của bà tiếp tục sinh hoạt trong môi trường hiện tại, hơn nữa luật sư của bà đã cố vấn cho bà là không nên dọn ra khỏi nhà.
Tuy nhiên, trong vụ hôn nhân của MatlaKowski, tòa đã bác đơn xin ly dị vì các bên đương sự vẫn sống chung trong thời gian ly thân, và đã cho tòa biết rằng họ sẽ tiếp tục sống chung một nhà sau khi tòa chấp nhận đơn xin ly dị của họ.
Tuy nhiên, trong vụ hôn nhân của Hunt, Thẩm Phán Gun đã không đồng ý với quyết định mà tòa đã đưa ra trong vụ MatlaKowski, khi Thẩm Phán Gun tuyên bố rằng không có lý do gì để cho rằng các bên đương sự không sống ly thân khi họ có ý định là sẽ tiếp tục sống chung sau khi tòa chấp thuận đơn xin ly dị của họ. Đồng ý rằng đơn xin ly dị chỉ được chấp nhận khi hôn nhân đã đổ vỡ đến một mức độ không thể hàn gắn được và rằng các bên đương sự đã ly thân và tiếp tục sống ly thân mà không có một viễn ảnh nào trong việc hòa giải được. Tuy thế, điều đó hoàn toàn không thực tế nếu tòa bác đơn xin ly dị khi dựa vào lý do là tòa cần phải bảo vệ định chế của hôn nhân.
Trước khi ban hành Đạo Luật Gia Đình 1975, trong vụ Hôn Nhân của Watkins (1952), tòa công nhận rằng hai vợ chồng đã sống ly thân, mặc dầu họ đã ở chung phòng nhưng khác giường ngủ. Trong vụ đó, người vợ cũng đã nấu nướng và giặt áo quần cho người chồng. Tuy nhiên, người chồng không chịu nói chuyện với người vợ, ngoại trừ thỉnh thoảng ông ta chỉ trả lời “yes” hoặc “no.” Vì thế, tòa đã chấp thuận cho họ ly dị.
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, bà có thể thấy được rằng việc ly thân của vợ chồng bà, mặc dầu vẫn tiếp tục ở chung nhà, sẽ được luật pháp xem như là đã ly thân theo sự quy định của điều 49(2) thuộc Đạo Luật Gia Đình, với điều kiện là ông và bà đã ngủ riêng phòng.
Trong trường hợp của bà, khi nộp đơn xin ly dị bà phải nhờ một người bạn thân làm một “tờ khai hữu thệ” (affidavit) đính kèm với đơn xin ly dị, trong “tờ khai hữu thệ” đó bạn của bà phải khai rằng đương sự đã biết ông bà trước đây khi chưa ly thân, và gần đây trong thời gian ly thân, ông bà đã không có những sinh hoạt với tư cách là vợ chồng trong đời sống bình thường của hôn nhân nữa.
Thực ra, thẩm quyền của Tòa Án Gia Đình liên hệ đến vấn đề chấp nhận hoặc bác bỏ một đơn xin ly dị chỉ là một loại thẩm quyền có tính cách thủ tục. Vì nếu tòa bác đơn xin ly dị với lý do là bà sống ly thân chưa đủ 12 tháng, thì bà chỉ cần sống ly thân cho đủ 12 tháng, và tòa không còn cách nào khác hơn là phải chấp nhận đơn xin ly dị của bà. Ngoại trừ ông hoặc bà lỡ đã hứa hôn tại Việt Nam và muốn làm thủ tục bảo lãnh ngay sau khi ly dị, thì đó là vấn đề khác.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp tường tận.
Từ đó chồng tôi chán nản, thường đi club bấm máy. Năm Ngoái chúng tôi có về Việt Nam thăm gia đình, và gần đây chồng tôi lại trở về Việt Nam vì có người em bị thương nặng vì tai nạn xe cộ. Sau khi trở về lại Úc, tính tình ông ta hoàn toàn thay đổi, và ông ta muốn ly dị.
Thực ra chúng tôi sống chung nhà nhưng không còn xem nhau như vợ chồng kể từ năm 2002 khi ông ta ngưng làm việc và mê bài bạc.
Xin LS cho biết là tôi có quyền nộp đơn xin ly dị chồng tôi trong trường hợp chúng tôi ly thân nhưng vẫn sống cùng nhà hay không"
Trả lời: Điều 49(2) của “Đạo Luật Gia Đình 1975” (the Family Law Act 1975) quy định rằng: “Các bên hôn phối có thể được xem là đã ly thân và đã sống một cách phân ly và tách biệt tuy rằng họ vẫn tiếp tục cư ngụ cùng nhà hoặc một bên đương sự đã làm một số công việc nhà cho đương sự kia.”
“Trong vụ Hôn Nhân của Falk (1977). Trong vụ đó, hai vợ chồng đã kết hôn vào năm 1956, và đã sống cùng nhà từ năm 1959. Họ có chung với nhau 5 người con. Sau nhiều năm xích mích trong đời sống hôn nhân, người vợ đã dọn ra khỏi phòng của người chồng vào tháng 3 năm 1975, và từ đó họ không còn quan hệ ái ân và không có đời sống xã hội chung với nhau nữa. Người vợ tiếp tục nấu nướng và làm việc nhà; người chồng trả hầu hết các chi phí và cũng trao cho người vợ $70 mỗi tuần cho những chi phí trong nhà.
Vào tháng 8 năm 1976, người vợ nộp đơn xin ly dị. Vào tháng 12 năm 1976 đơn xin ly dị đã bị tòa bác bỏ. Người vợ bèn kháng án.
Tòa đã tuyên bố rằng khi các bên đương sự tiếp tục cư ngụ cùng nhà nhưng một hoặc cả hai người cho rằng họ đã ly thân kể từ một thời điểm nào đó, thì vẫn không có sự khó khăn nào về việc chấp nhận rằng các bên đương sự ‘đã ly thân’ mặc dầu không có sự bỏ đi của một trong hai người khỏi căn nhà mà họ đã cùng cư ngụ trước đây.
Tòa cho rằng ly thân thực ra có nghĩa là từ bỏ tình trạng của sự việc hơn là từ bỏ một nơi chốn đặc biệt nào đó. Cuối cùng tòa đã chấp nhận cho ly dị.
Có những trường hợp các bên phối ngẫu vẫn tiếp tục sống chung cùng nhà, và thỉnh thoảng vẫn giúp nhau làm những công việc nhà, tuy thế họ vẫn được công nhận là đã sống ly thân theo sự quy định của Đạo Luật Gia Đình, như đã được xét xử trong vụ Hôn Nhân của Potter khi tòa cho rằng: Vấn đề một trong hai bên đương sự thỉnh thoảng giúp đỡ cho nhau không có nghĩa là họ không ly thân theo sự quy định của Luật Gia Đình.
Trong vụ Hôn Nhân của Hodges, người vợ đã lo cơm nước cho người chồng, và cả hai vợ chồng thỉnh thoảng ngồi ăn chung với nhau cùng con cái trong gia đình. Ngoài ra, người vợ đã giặt áo quần cho người chồng và làm những việc nhà, và người chồng đã trả tiền cho người vợ để làm những việc nhà đó. Tuy nhiên, các bên phối ngẫu đã ngủ riêng phòng, không có quan hệ ái ân, và không có những sinh hoạt về đời sống xã hội chung. Vì thế, tòa đã cho rằng các bên hôn phối đã sống ly thân theo sự quy định của điều 48 khoản (2) của Đạo Luật Gia Đình và tòa đã chấp nhận cho ly dị.
Nếu các bên phối ngẫu vẫn sống chung cùng nhà trong thời gian ly thân, thì họ có nhiệm vụ phải giải thích cho tòa về tình trạng của sự ly thân đó, như đã được quyết định “trong vụ Hôn Nhân của Pavey.” Trong vụ đó tòa đã tuyên bố rằng: Các bên phối ngẫu phải giải thích về tình trạng ly thân, vì nếu không có sự giải thích đầy đủ về tình trạng ly thân, thì không có sự đổ vỡ về hôn nhân, vì sự ở chung nhà cho thấy các bên đương sự vẫn tiếp tục sống chung. … bên phối ngẫu cho rằng là họ đang sống ly thân phải thỏa mãn cho tòa về điều đó bằng cách giải thích lý do tại sao các bên đương sự vẫn tiếp tục sống chung nhà, và phải chứng minh là có sự thay đổi trong quan hệ của họ và sự thay đổi đó đã cấu thành sự ly thân.
Nếu các bên đương sự cho rằng họ phải sống chung cùng nhà vì tương lai của con cái, thì điều này về phương diện lý thuyết có thể được xem như là không có sự đổ vỡ về hôn nhân. Tuy nhiên, tùy theo trường hợp, tòa vẫn chấp nhận cho các bên đương sự ly dị như đã được xét xử trong vụ hôn nhân của Pavey, khi người vợ cho rằng lý do mà bà ta vẫn sống chung vì muốn các đứa con của bà tiếp tục sinh hoạt trong môi trường hiện tại, hơn nữa luật sư của bà đã cố vấn cho bà là không nên dọn ra khỏi nhà.
Tuy nhiên, trong vụ hôn nhân của MatlaKowski, tòa đã bác đơn xin ly dị vì các bên đương sự vẫn sống chung trong thời gian ly thân, và đã cho tòa biết rằng họ sẽ tiếp tục sống chung một nhà sau khi tòa chấp nhận đơn xin ly dị của họ.
Tuy nhiên, trong vụ hôn nhân của Hunt, Thẩm Phán Gun đã không đồng ý với quyết định mà tòa đã đưa ra trong vụ MatlaKowski, khi Thẩm Phán Gun tuyên bố rằng không có lý do gì để cho rằng các bên đương sự không sống ly thân khi họ có ý định là sẽ tiếp tục sống chung sau khi tòa chấp thuận đơn xin ly dị của họ. Đồng ý rằng đơn xin ly dị chỉ được chấp nhận khi hôn nhân đã đổ vỡ đến một mức độ không thể hàn gắn được và rằng các bên đương sự đã ly thân và tiếp tục sống ly thân mà không có một viễn ảnh nào trong việc hòa giải được. Tuy thế, điều đó hoàn toàn không thực tế nếu tòa bác đơn xin ly dị khi dựa vào lý do là tòa cần phải bảo vệ định chế của hôn nhân.
Trước khi ban hành Đạo Luật Gia Đình 1975, trong vụ Hôn Nhân của Watkins (1952), tòa công nhận rằng hai vợ chồng đã sống ly thân, mặc dầu họ đã ở chung phòng nhưng khác giường ngủ. Trong vụ đó, người vợ cũng đã nấu nướng và giặt áo quần cho người chồng. Tuy nhiên, người chồng không chịu nói chuyện với người vợ, ngoại trừ thỉnh thoảng ông ta chỉ trả lời “yes” hoặc “no.” Vì thế, tòa đã chấp thuận cho họ ly dị.
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, bà có thể thấy được rằng việc ly thân của vợ chồng bà, mặc dầu vẫn tiếp tục ở chung nhà, sẽ được luật pháp xem như là đã ly thân theo sự quy định của điều 49(2) thuộc Đạo Luật Gia Đình, với điều kiện là ông và bà đã ngủ riêng phòng.
Trong trường hợp của bà, khi nộp đơn xin ly dị bà phải nhờ một người bạn thân làm một “tờ khai hữu thệ” (affidavit) đính kèm với đơn xin ly dị, trong “tờ khai hữu thệ” đó bạn của bà phải khai rằng đương sự đã biết ông bà trước đây khi chưa ly thân, và gần đây trong thời gian ly thân, ông bà đã không có những sinh hoạt với tư cách là vợ chồng trong đời sống bình thường của hôn nhân nữa.
Thực ra, thẩm quyền của Tòa Án Gia Đình liên hệ đến vấn đề chấp nhận hoặc bác bỏ một đơn xin ly dị chỉ là một loại thẩm quyền có tính cách thủ tục. Vì nếu tòa bác đơn xin ly dị với lý do là bà sống ly thân chưa đủ 12 tháng, thì bà chỉ cần sống ly thân cho đủ 12 tháng, và tòa không còn cách nào khác hơn là phải chấp nhận đơn xin ly dị của bà. Ngoại trừ ông hoặc bà lỡ đã hứa hôn tại Việt Nam và muốn làm thủ tục bảo lãnh ngay sau khi ly dị, thì đó là vấn đề khác.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp tường tận.
Gửi ý kiến của bạn