Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Trung Cộng Quậy Đông Á

14/05/201600:00:00(Xem: 7491)
...ba rủi ro là thất nghiệp cao, núi nợ sẽ sụp đổ và sự bất mãn của đảng viên cán bộ...

Khác với tham vọng của quốc hiệu, Trung Quốc không hề là trung tâm của thế giới mà chỉ có thể là trung tâm của Đông Á, khu vực miền Đông của đại lục địa Âu-Á, đại lục trải dài từ Tây Âu tới Viễn Đông. Về địa dư, trên đại lục Âu-Á, khu vực ta gọi là Á Châu tiếp cận với Âu Châu, nơi quy tụ các quốc gia bán đảo hay quần đảo, tiếp cận với các nước Trung Đông và Phi Châu và với Úc Châu ở mạn Đông Nam….

Ngày nay, do bản chất Trung Hoa và Cộng sản, Trung Cộng đang trở thành vấn đề của Đông Á.

Vì các đặc tính địa dư, lịch sử và văn hóa, Á Châu không là một quần thể thống nhất mà có rất nhiều dị biệt. Là một phần của Á Châu và tiếp giáp với Thái Bình Dương, khu vực Đông Á cũng có những khác biệt tương tự và nhiều xung đột khốc liệt từ hai trăm năm về trước…. Chúng ta sẽ nhìn lại khu vực Đông Á này, trước tiên từ tấm bản đồ.

Giới địa dư học phân biệt bốn vùng khác nhau trong khu vực Đông Á. Cùng tấm bản đồ, ta nên dùng thêm cuốn lịch để nhìn lại toàn cảnh.

Từ biển xanh nhìn vào và từ Bắc xuống Nam, thứ nhất, ta có bán đảo Triều Tiên tiếp cận với hai quốc gia đại lục là Trung Quốc và Nga, và một quốc gia quần đảo là Nhật Bản. Ba cường quốc Tầu, Nga và Nhật đã từng gây chiến với nhau từ đầu thế kỷ 19, và bản đảo Triều Tiên còn là địa bàn của Chiến tranh Cao Ly năm 1950 giữa Liên Xô và Trung Cộng với Hoa Kỳ, một siêu cường Thái Bình Dương. Giữa mấy lần xung đột ấy - 1894, 1905 và 1950 – là Đệ nhị Thế chiến với trận chiến Thái Bình Dương 1941-1945 và hậu quả là sự hiện hữu của hai nước Nam và Bắc Hàn trên bán đảo Triều Tiên.

Từ phương Bắc nhìn xuống, Đông Á có vùng thứ hai là quần đảo Thái Bình Dương, ở giữa là Nhật Bản, hiện hữu bên Đài Loan và Phi Luật Tân là ba quốc gia bao quanh vùng biển cận duyên mà Trung Quốc gọi là Hoa Đông, East China Sea. Xưa nay, cường quốc Trung Hoa trong lục địa đã nhiều lần bị ảnh hưởng ngoại nhập, thậm chí chiến tranh, cùng từ biển Hoa Đông vào bên trong.

Vùng thứ ba là một quần thể còn phức tạp hơn vì nằm giữa hai cường quốc Á Châu là Trung Quốc và Ấn Độ.

Đấy là bán đảo Đông Dương mà xưa kia dân Âu Châu gọi là bán đảo Ấn-Hoa, Indo-China, bên cạnh Miến Điện, Thái Lan và bán đảo Mã Lai nơi tiếp giáp các quốc gia quần đảo là Mã Lai Á (Malaysia) và Nam Dương (Indonesia). Ở giữa vùng đất này là biển Đông Nam Á mà Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam (South China Sea) và dân ta gọi là Đông Hải. Xin nhắc lại, tên gọi chỉ phản ảnh khái niệm địa dư chứ không là chủ quyền và trong thế kỷ 20, Trung Cộng đã muốn kiểm soát vùng này qua các tổ chức cộng sản mà chuyện bất thành. Ngoại lệ là Việt Nam, với trận chiến 30 năm của dân tộc với kết quả là đảng Cộng sản Việt Nam thống nhất cả nước dưới lá cờ đỏ và dâng cho Tầu.

Nhưng chưa hết rắc rối đâu, vì vùng đất thứ tư của khu vực Đông Á là… phân nửa nước Tầu!

Từ ngoài biển nhìn vào, Trung Quốc tiếp cận với biển Hoa Đông ở phía Bắc và Hoa Nam ở phía Nam, hai mặt biển cận duyên của các quốc gia bán đảo hay quần đảo, từ Đài Loan đến Nhật Bản, Phi Luật Tân, Nam Dương và Việt Nam, v.v… Từ Bắc Kinh ngó ra hướng Đông, đây là nơi nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Nhưng về địa dư thì chỉ có phân nửa Trung Quốc mới là Đông Á.

Đấy là vùng đất có độ ẩm cao nhất nên thuận tiện cho việc trồng trọt canh tác từ ngàn xưa và là cái nôi của văn minh Trung Hoa, khoảng đất này rộng chừng 600 cây số từ ngoài biển vào trong, có hai dòng sông lớn là Hoàng Hà ở mạn Bắc và Dương Tử ở miền Nam. Đi xa hơn vào hướng Tây, lãnh thổ ngày nay của Trung Quốc có các vùng đất bị khóa trong lục địa và là nơi sinh sống truyền thống của các sắc tộc Mông, Hồi, Tạng: Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng. Trung Quốc đã thôn tính và chiếm đóng vùng đất khô cằn bát ngát ấy làm vùng trái độn quân sự. Người ta có thể dán nhãn là Tây Vực, Trung Á hay “hạch tâm nghĩa lợi” của Bắc Kinh, nhưng không thể gọi vùng đất ấy là Đông Á.

Và đấy là nỗi lo của Bắc Kinh.

Viết lại cho gọn, khu vực Đông Á có bốn vùng: 1/ bán đảo Triều Tiên bên Nhật Bản, 2/ quần đảo Thái Bình Dương tại Đông Bắc Á, 3/ quần đảo Thái Bình Dương tại Đông Nam Á và… 4/ phân nửa miền Đông của nước Tầu. Nhìn từ Bắc Kinh, vây quanh phân nửa ấy chỉ thấy toàn những chướng ngại, từ sau lưng ra ngoài biển. Và phía Tây của Thái Bình Dương, có Hoa Kỳ vẫn là siêu cường toàn cầu về mọi mặt kinh tế, quân sự và khả năng sáng tạo trong vài chục năm nếu không nói là cả thế kỷ!

Cuộn lại tấm bản đồ, chúng ta bước vào thế kỷ 21….

***

Sau Thế chiến II, Nhật Bản đã trỗi dậy từ đổ nát của chiến tranh và trở thành cường quốc kinh tế theo con đường hòa bình và dân chủ với lực đẩy là thị trường. Từ quãng 1980 trở về sau, ngoài Nhật Bản, các nước Đông Á cũng đã phát triển thật nhanh và lần đầu tiên mà lượng hàng hóa giao dịch qua biển Thái Bình đã lớn hơn lượng hàng mua bán giữa các quốc gia kỹ nghệu Âu-Mỹ qua Đại Tây Dương là vào năm 1983. Học theo Nhật Bản và các nước rồng cọp Đông Á, Trung Quốc cũng nhập cuộc từ năm 1980 trở đi và đạt mức tăng trưởng rất cao trong ba chục năm liền.

Nhưng đấy là tăng trưởng thiếu phẩm chất và chính trị thiếu hội nhập nên các tỉnh Đông Á của xứ này đã bỏ rơi các tỉnh bên trong….

Tại bên ngoài, khu vực Đông Á làm ăn phát đạt ấy có hai nền kinh tế đứng hạng nhì và hạng ba thế giới là Tầu và Nhật. Cả hai quốc gia ấy, cùng với Nam Hàn đều cần đến nguyên liệu và nhiên liệu từ Trung Đông, Phi Châu hay Úc Châu và phải chuyên chở qua các eo biển. Then chốt nhất là Eo biển Malacca trên bán đảo Mã Lai, nơi vận chuyển 65% của dầu khí toàn cầu và một phần ba tầu hàng từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Chung quanh và ngay trong vài năm tới, các nước Đông Nam Á như Nam Dương, Phi Luật Tân và Việt, Miên, Lào, Miến, đang ra sức khai thác nạn lão hóa dân số tại Nhật Bản và tại Trung Quốc để thành một chuỗi công xưởng ráp chế từ Hoa lục sẽ chuyển ra ngoài.

Nhìn từ Bắc Kinh không phải trên tấm bản đồ mà qua bản tổng hoạch đồ kế toán thì đấy là vấn đề kinh tế chính trị.

Nền kinh tế sẽ gặp kỷ nguyên “tân thường thái”, trạng thái bình thường mới hay “new normal” là không thể tăng trưởng cao như xưa. Mà cũng chẳng thể kích thích tăng trưởng bằng tín dụng ngân hàng, như Tập Cận Bình và ban tham mưu lãnh đạo kinh tế của ông vừa xác nhận tuần qua sau khi kín đáo đả kích Tổng lý Quốc vụ viện là Thủ tướng Lý Khắc Cường. Kinh tế xứ này sẽ tăng trưởng thấp hơn và tìm lực đẩy mới là tiêu thụ nội địa thay cho lực đẩy trước đây là đầu tư và xuất cảng. Họ phải chuyển hướng nếu không thì bị khủng hoảng và chuyển hướng với ba rủi ro là thất nghiệp cao, núi nợ sẽ sụp đổ và sự bất mãn của đảng viên cán bộ và cả quân đội thuộc các tỉnh nghèo đói lạc hậu bên trong.

Chưa nói tới nạn khủng bố Hồi giáo tại Tân Cương!

Thật ra, kỷ nguyên phát triển của Đông Á vừa rồi chỉ là ngoại lệ ngắn ngủi so với biết bao lầm than chinh chiến trong khu vực trải qua Thế kỷ 21 và trước đó nữa.

Việc Trung Quốc bị Nhật chiếm đóng và nội chiến Quốc-Cộng là một thảm kịch, kết thúc với thảm kịch Mao Trạch Đông khi Trung Quốc trở thành Trung Cộng, tiếp theo là chuỗi binh đao của Thế chiến II rồi Chiến tranh Cao Ly và Việt Nam, kết thúc với Nội chiến tại Kampuchia và sự can thiệp của Việt Nam Cộng Sản vào xứ Chùa Tháp vì quái thai Khờ Me Đỏ do Bắc Kinh và Hà Nội đẻ ra. Chìm sâu bên dưới và bị lãng quên là trận chiến của Trung Cộng tại Việt Nam năm 1979, mở đầu cho kế hoạch chiếm đoạt vùng biển Đông Nam Á kể từ 1988 và được Hà Nội hợp thức hoá với Trung Cộng qua nhiều đợt mật đàm từ những năm 1991 trở về sau….

Ngày nay, Đông Á có hai điểm nóng là biển Hoa Đông và Hoa Nam của Trung Cộng.

Then chốt nhất trong quá khứ và cho tương lai là quan hệ giữa Trung Cộng với Nhật Bản, hai cường quốc đã rẽ qua hai hướng trái ngược. Bị thất trận, Nhật Bản từ bỏ con đường chiến tranh từ năm 1945 để trở thành cường quốc kinh tế dân chủ nhưng nay lại bị lôi về quá khứ do sự xuất hiện của Trung Cộng với tham vọng bá quyền. Nhưng trên đỉnh cao của tham vọng ấy, Trung Cộng cũng gặp nhiều thách đố ngặt ngèo ở bên trong và động thái quá ngang ngược lại khiến các nước trong khu vực duyệt lại quan hệ.

Sau giai đoạn tăng trưởng nóng, Đông Á đang trôi vào Chiến tranh lạnh khi đà tăng trưởng của Trung Cộng cũng lại giảm. Trong loạt bài tới, chúng ta sẽ tìm hiểu chuyện này….

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.