Hôm nay,  

Đỗ Thông Minh: Người Tìm Đường

03/10/201508:04:00(Xem: 13466)
ĐỖ THÔNG MINH: NGƯỜI TÌM ĐƯỜNG

Đường đời trăm vạn nẻo

Đâu lối về cố hương?

 

Giao Chỉ - San Jose 2006

 

(LGT: Mời độc giả tham dự ngày "Đỗ Thông Minh Hành Trình 45 Năm Hoạt Động" được tổ chức tại tại San Jose. Lúc 1:30 PM và 6:00 PM Chủ Nhật Oct 18.. LL: Huỳnh Lương Thiện (415) 720-5247. Sau đây là bài giới thiệu ông Đỗ Thông Minh viết năm 2006.)

 

 

              Ông Đỗ Thông Minh năm nay 56 tuổi, sinh năm 1950, quê Nam Định, có vợ và 3 con, hiện định cư tại Đông Kinh, Nhật Bản.

              Hơn 30 năm trước, các sinh viên Việt Nam còn trẻ du học tại Nhật Bản tên tuổi đều lịch sự ngon lành. Người thì “Thông Minh” người thì “Lương Thiện”. Tên tuổi cha mẹ đặt cho như thế thì thật là vất vả một đời. Phải cố gắng học hành và làm ăn tử tế.

              Sau 30 tháng 4-1975, đám sinh viên quốc gia chống Cộng du học trên thế giới đều bị hụt hẫng. Các anh chị em Việt Nam ở Đông Kinh cũng như vậy. Sau khi nỗ lực tìm cách giúp đỡ người tỵ nạn di tản thì nhóm này là những người đầu tiên nghĩ đến đầu cầu Thái Lan khi tìm đường trở về.

              Tuy nhiên, tổ chức “Người Việt Tự Do” tại Nhật Bản gồm toàn các thanh niên còn trẻ, dưới 30 tuổi. Lòng hăng hái nhiệt thành sẵn có, nhưng hoàn toàn không có kinh nghiệm, không có phương tiện, chưa tạo được sự tin tưởng và hoàn toàn vô danh đối với cộng đồng tỵ nạn đã bắt đầu hình thành tại Hoa Kỳ. Họ đã từng đi qua Thái Lan, khi thăm dò, gặp sứ quân tướng lãnh Thái Lan, ai cũng bảo rằng, phải đi Mỹ tìm cho được một người đã từng đeo sao trên cổ áo.

              Vì vậy, con đường về quê hương phải bắt đầu bằng chuyến đi tìm lãnh tụ.

              Đỗ Thông Minh, trong những chuyến đi khởi đầu năm 1978, từ Đông Kinh qua Hoa kỳ đã tiếp xúc với các hội đoàn và các vị tướng lãnh tỵ nạn. Ông muốn đi tìm một tướng công Việt Nam Cộng Hòa thật sự muốn dấn thân trở về.

              Ông đã đi gặp nhiều các niên trưởng lãnh đạo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau cùng, ông đã gặp một người thợ sơn bất đắc dĩ ở Virginia đang bồn chồn nóng nảy muốn vất cây cọ để cầm lại cây sung, người đó là Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh.

              Ngày 15 tháng 6-1981, có ba người đại diện cho ba tổ chức đã ngồi lại để mở đường cho chuyến đi lịch sử. Tướng Hoàng Cơ Minh đại diện Lực Lượng Quân Dân, ông Trần Văn Sơn của tổ chức Phục Hưng Việt Nam và ông Đỗ Thông Minh của tổ chức Người Việt Tự Do. Ông Minh và ông Sơn đều thuộc Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã ngoài 45 tuổi, còn Đỗ Thông Minh mới có 31 tuổi.

              Sau chuyến mở đường tiếp xúc với phe quân sự Thái Lan được sự hứa hẹn đầy triển vọng, phái đoàn trở về chuẩn bị.

              Ngày 20 tháng 8-1981, nhóm công tác chính thức của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam lên đường đi lập chiến khu. Tổng cộng là 7 người và hầu hết hiện nay đã hy sinh. Trong đó có các ông Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Thiện Khải v.v...

              Ngày 20 tháng 10-1981, tổ chức Phục Hưng Việt Nam lúc đó có ông Trần Văn Sơn và ông Đỗ Chí Dũng từ Hoa Kỳ lên đường qua Thái Lan tìm hiểu tình hình tại chỗ.

              Ngày 20 tháng 2-1982, Người Việt Tự Do gửi các ông Ngô Chí Dũng và Bùi Bằng Đoàn từ Nhật Bản qua Thái Lan. Ngô Chí Dũng phụ trách Trưởng đài Phát Thanh Việt Nam Kháng Chiến, nay đã mất tích và Bùi Bằng Đoàn tức là Lý Thái Hùng của Việt Tân ngày nay.

              Ngày 24 tháng 2-1982, các ông Đại Tá Phạm Văn Liễu, Ký Giả Hoàng Xuân Yên và Giáo Sư Trương Bổn Tài từ Mỹ qua Thái dự lễ công bố công lĩnh chính trị. Một phóng viên TV của CBS đã đi theo và quay được đoạn phim 5 phút lịch sử mở đường cho giai đoạn hào hùng nhất của câu chuyện Kháng Chiến ra đời. Buổi lễ này tổ chức vào ngày 8 tháng 3-1982.

              Ngày 31 tháng 3-1982 với mấy phút trong bản tin thời sự buổi chiều truyền đi khắp nước Mỹ do Dan Rather của CBS giới thiệu đã làm rung động toàn thể cộng đồng Việt hải ngoại. Hòa nhịp theo những xúc động của mọi người, Giao Chỉ đã viết bài văn đầu tiên cho Kháng Chiến có tựa đề là “Đường Mòn Hoàng Cơ Minh.”

              Rồi Tổng Vụ Hải Ngoại thành lập trong giai đoạn sơ khởi tổ chức đã từng chỉ định ông Huỳnh Lương Thiện làm Tổng Vụ Phó cho cựu Đại Tá Liễu trong chức vụ Tổng Vụ Trưởng, nhưng về sau ông Thiện chỉ thực sự nhận làm báo Kháng Chiến.

              Trong vai trò đại diện tổ chức Phục Hưng, Giáo Sư Ngô Đức Diễm cũng đã từng đảm trách Tổng Thư Ký của Mặt Trận một thời gian ngắn. Nhưng về sau vì bất đồng quan điểm nên chỉ còn Người Việt Tự Do và Lực Lượng Quân Dân chính thức giải tán để thành lập Mặt Trận. Riêng tổ chức Phục Hưng rút lui.

              Bắt đầu từ 1 tháng 4-1982, tờ nguyệt san Người Việt Tự Do tại San Jose cải tổ thành cơ sở chính thức của Mặt Trận. Ông Đỗ Thông Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút báo Kháng Chiến đầu tiên, phát hành 10 ngàn số mỗi kỳ. Cách nay 25 năm, đây là con số phát hành kỷ lục.Tuy nhiên đến năm 1983, bắt đầu có xích mích nặng ở thượng tầng, ông Đỗ Thông Minh về lại Nhật Bản, báo Kháng Chiến do Ký Giả Lê Thiệp đảm trách một năm rồi giao lại ông Huỳnh Lương Thiện cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng Mặt Trận bể làm hai giữa ông Liễu và ông Minh.

              Như vậy, lịch sử Kháng Chiến Phục Quốc của tướng Minh thật sự đã ra đời và nằm trong nôi tại San Jose với nhiều tên tuổi, nhân chứng vẫn còn có mặt hôm nay. Các ông Hoàng Xuân Yên, Trương Bổn Tài, Đỗ Chí Dũng, Ngô Đức Diễm, Huỳnh Lương Thiện cùng nhiều người khác và đặc biệt với người nhân chứng mở đường là Đỗ Thông Minh.

              Có người ghé qua chốc lát, có người đi bên nhau chỉ một đoạn đường. Rồi sau đó...

              Anh đi đường anh, tôi đường tôi.

              Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

              Xem ra, cuộc giã từ sớm sủa của Phục Hưng và lưu luyến thêm vài năm sau của Người Việt Tự Do đối với Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh lại là những cuộc chia ly đẹp đẽ nhất vào thời kỳ 80.

*       *       *

              Từ giã Kháng Chiến, Đỗ Thông Minh trở lại Đông Kinh gây dựng cơ sở Tân Văn. Theo gương người xưa, ông đi con đường của một thời Đông Kinh Nghĩa Thục.

              Từ Nhật Bản, Đỗ Thông Minh ngày nay không còn vất vả đi tìm lãnh tụ. Ông lấy công việc biên khảo và xuất bản là trọng tâm công tác. Ông nghiên cứu để phát huy văn hóa Việt Nam tại hải ngoại cũng như trong nước và giao lưu Việt-Nhật.

              Những sự đóng góp về văn hóa của ông qua nhiều năm đã trở thành một kho tàng biên khảo đồ sộ với các loại tự điển Hán, Việt, Anh, Nhật và tự điển tin học. Ông cũng là người tổ chức kỷ niệm và ra sách 100 Năm Phong Trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu và Cường Để, cũng như 100 Năm Phong Trào Du Tân của cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp…

              Qua hệ thống điện toán, ông đã cộng tác với rất nhiều cơ quan truyền thông hải ngoại, đã du thuyết hàng trăm lần trên khắp thế giới, đặc biệt đẩy mạnh từ năm 2002, với mục tiêu sơ khởi là đi nói chuyện trong 10 năm và đồng thời cũng đã được các chương trình Radio, TV khắp nơi phỏng vấn về mọi đề tài.

              Với địa vị đặc biệt đã xây dựng nhiều năm tại Đông Kinh, ông là người Việt bắc nhịp cầu giữa Nhật Bản và cộng đồng Việt hải ngoại.Tính từ 1978 đến 2006, ông đã đi gần khắp năm châu bốn bể nhiều lần để thuyết trình, sau này chủ yếu là về các đề tài văn học. Đặc biệt từ Tokyo, ông đã đi Hoa Kỳ tổng cộng 27 lần. Nhiều phái đoàn Việt Nam từ hải ngoại qua Nhật Bản đều nhờ sự hướng dẫn của cơ sở Mekong do Đỗ Thông Minh thành lập.

              Mặc dù còn trẻ nhưng Đỗ Thông Minh không phải là người hoàn toàn khỏe mạnh. Người học giả tâm huyết và nhiệt thành của cộng đồng Việt hải ngoại hiện đã hoàn toàn bị hư hai trái thận. Suốt bao nhiêu năm qua, ông còn sống được là nhờ một trái thận do vợ hiền trao tặng từ năm 1990.

              Con người một thời mở đường cho Kháng Chiến, con người đã đóng vai kẻ tìm đường từ năm 1980. Một “Pathfinder” của thế giới người Việt tỵ nạn, thành viên sáng lập của tổ chức Người Việt Tự Do ở Nhật Bản một thời mơ mộng: “Mai này chúng ta cùng về Việt Nam.”.Bây giờ ông đã tìm thấy lối đi. Con đường về quê hương của Đỗ Thông Minh đi theo ngả văn hóa, với hành trang tin học, tự điển, bài viết về Việt - Hán - Nôm… và loạt bài Tự Vấn với hoài bão thay đổi tư duy của người Việt, hầu vượt thoát quãng tụt hậu hiện nay.

              Một trái thận của vợ luôn luôn đeo trong mình. Trên chuyến bay viễn du vòng quanh thế giới để đi nói chuyện văn hóa, học giả Đỗ Thông Minh của chúng ta mỗi khi nhớ thương vợ hiền để lại quê người, ông không để tay lên trái tim như thiên hạ thường tình, ông để tay vào bụng, để chắc chắn rằng, trái thận của tình yêu vẫn còn đang làm việc.

              Tháng 9 năm nay, Đỗ Thông Minh từ Đông Kinh trở lại Hoa Kỳ lần thứ 28 trong chuyến đi 7 tuần, nói chuyện tại 14 nơi. Ông sẽ không nói chuyện văn hóa hay luận bàn về chuyện người Việt xấu tốt ở chỗ nào. Sau khi chia tay với Kháng Chiến 20 năm trước, lần này Đỗ Thông Minh trở lại Thung Lũng Hoa Vàng San Jose, Cali để làm nhân chứng cho Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh.

Ông Đỗ Thông Minh sẽ thay mặt cho kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng, tác giả cuốn hồi ký kháng chiến Hành Trình Người Đi Cứu Nước, còn đang mang nặng kiếp lưu đày ở Cam Bốt, đem đến San Jose bản báo cáo cuối cùng của một kháng chiến quân còn sống sót. Ông sẽ nói về cái chết của tướng Hoàng Cơ Minh, người mà ông đã một thời tin tưởng là sẽ mở được đường về và các kháng chiến quân...

           Đây là một cuốn sách được chờ đợi 25 năm sẽ ra mắt lần đầu tiên tại San Jose.

              Xin nhắc lại vào đầu thập niên 80, Kháng chiến Hoàng Cơ Minh ra đời tại San Jose và bây giờ vào năm 2006, tác phẩm viết về câu chuyện người đi cứu nước bên kia biên giới sẽ được coi như bản phúc trình tổng kết của một giai đoạn tranh đấu bằng võ lực.

              Câu chuyện dài hào hùng, đau thương và cay đắng vẫn kéo dài những thắc mắc đến ngày nay.

              Bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu người còn sống. Bao nhiêu lần ngồi lại và bao nhiêu lần chia tay.

              Chương trình ra mắt sách vào chiều thứ Bảy 30 tháng 9-2006 tại San Jose sẽ được chuẩn bị chu đáo, có chiếu phim về công cuộc kháng chiến phục quốc từ Trần Văn Bá (Pháp Quốc) đến Võ Đại Tôn (Úc Châu) và Hoàng Cơ Minh (Hoa Kỳ).

              Quan khách sẽ được nghe các bản nhạc chiến khu bất hủ của kháng chiến quân Trần Thiện Khải, người đã tự sát tại Hạ Lào để khỏi rơi vào tay địch.

              Trong chúng ta ai mà chẳng nghĩ đến quê hương đất nước. Nếu muốn biết sự thật về câu chuyện 10 năm kháng chiến từ 1981 đến 1990 tại Đông Nam Á, buổi ra mắt sách sẽ là câu trả lời cho mọi trăn trở suốt bao năm qua.

              Từ sau 1990 cho đến nay, một trang lịch sử đấu tranh mới đã mở ra mặt trận chính trị. Con đường mới là con đường đòi hỏi dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Nhưng lòng người vẫn còn thắc mắc chưa giải tỏa về giai đoạn ngày xưa đã mở đường về nước bằng súng đạn nhưng không thành. Bộ hồi ký 2 cuốn dày 932 trang của một người đi cứu nước sẽ giúp chúng ta có các chứng liệu để suy ngẫm.

              Mặc dù tác phẩm có giá trị nhân chứng nhưng thực tế vẫn có thể còn đem đến nhiều sự phê phán. Những nhận xét của tác giả về chuyện xảy ra trên thế giới, trong nước và về cộng đồng Việt hải ngoại phải được coi như hoàn toàn có tính cách cá nhân với sự hiểu biết và tin tức giới hạn. Ngoài ra, phần viết về quan điểm xây dựng đất nước đều hoàn toàn chủ quan với nhận xét riêng của tác giả.

              Ngoài ra, một vài đoạn ghi lại những dữ kiện trong những năm đi kháng chiến vẫn còn có thể coi như chưa phải là chính thức. Những sự kiện mắt thấy tai nghe còn lẫn với chuyện được tác giả nghe kể lại trong tù. Độc giả đọc sách vẫn cần phải tự gạn lọc để nhận thức các điểm nào xác tín và các điểm hoài nghi.

              Sau cùng, đây là một cuốn sách cần tìm đọc và việc thẩm định sau cùng trong tay quý độc giả. Người đem cuốn sách từ Đông Kinh đến San Jose là Đỗ Thông Minh, người tìm đường của thập niên 80. Hy vọng rằng, cuốn hồi ký là bản báo cáo của những người vừa thông minh vừa lương thiện.

              Thế hệ sau này học được nhiều qua gương thành công của tiền nhân. Nhưng hậu thế cũng học được qua những bài học thất bại của người đi trước. Những người đã xả thân viết nên bài học đau thương để làm nền móng đấu tranh cho đời sau. Từng thế hệ nối tiếp phải thay nhau lên đường.

              Xa xa phía trước vẫn là những kẻ dò đường. The “Pathfinder” Đỗ Thông Minh là một trong những người tìm đường của chúng ta.

              Một lần nữa, San Jose chào đón con người đã có lần tạm cư ở đất này, làm báo “Người Việt Tự Do” ấn bản Bắc Mỹ và sau trở thành báo Kháng Chiến.

              Đó là thời kỳ của những năm 80.

              Cuốn sách ông giới thiệu sẽ nằm trong thư viện của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose. Trong phần thư mục của trang sử Kháng Chiến Phục Quốc hết sức hào hùng và bi thảm. Chính những trang sử của thất bại sẽ hạ sinh những thành quả vẻ vang trong tương lai. “Thất bại là mẹ thành công.” Những sự hy sinh cao quý không bao giờ vô ích, vì vậy sẽ không bao giờ bị lãng quên.

              Xin mời quý vị đến với “Hồi Ký Của Người Đi Cứu Nước.”

              Thứ Bảy 30 tháng 9-2006, một ngày làm sống lại cả 25 năm trước.   

 

Giao Chỉ 

 

blank
-- 
 
 

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

  blank blank blank blank blank blank

Giao Chỉ, SanJose City, VietMuseum, Book 1, 2 đã phổ biến, sẽ in 3, 4, 5 đến 12.

Một cuốn $10 Mua sách ghi IRCC 3017 Oakbridge Dr. San Jose CA 95121

Lịch sử ngàn người viết, tác giả ghi chép lại, giữ sách là giữ lửa cho mai sau.


.
.

Ý kiến bạn đọc
19/11/201617:48:35
Khách
Thân gửi lời chào và chúc sức khỏe Ông Đỗ Thông Minh từ Tây Đức thành phố Hannover.
Tôi xin được phép thông cảm với ông là một sinh viên Việt Nam, đã đi du học và không bao giờ không một phút nào quên mình có cái gì đó thiêng liêng ràng buộc với người Việt Nam.
Tôi cũng ở khoảng tuổi ông, sang Đức 1967.
Tôi còn sức khỏe tương đối tốt và cũng còn có cái may mắn hơn ông là không gặp khó khăn về sống Việt Nam gần 4 năm liền, đã đi từ Bắc chí Nam trông rõ nước VNXHCN. Tôi có nhận xét là tôi cảm nhận đúng về Xã hội và chế độ mình. Tôi có dịp đến những nơi mà sách vở và báo chí vẫn đề cập tới và cả những địa điếm lịch sử viết. Trải nghiệm này rất cần thiết để tìm ra lời giải cho Việt Nam.
Một lần nữa gửi lời chào quí mến đến ông.
Nếu tùy duyên rất mong được gặp ông.
Đoàn Văn
Hội Nhân Xã
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.