Hôm nay,  

Trần Trọng Kim và “Một Cơn Gió Bụi”

23/05/201500:00:00(Xem: 9353)
Học giả Trần Trọng Kim, là vị thủ tướng đầu tiên của lịch sử Việt Nam và “Một Cơn Gió Bụi” là cuốn hồi ký của ông, viết về một giai đoạn đau thương của lịch sử Việt Nam. Lần đầu tiên tại Hoa Kỳ, sách “Một Cơn Gió Bụi” vừa được nhà xuất bản Sống hiệu định, tái bản và ra mắt vào lúc 2 giờ chiều Chủ nhật 24 tháng Năm 2015, tại Việt Báo Gallery. Sau đây là bài “Tựa” của nhà xuât bản Sông.

* * *

Sinh vào năm Quý Mùi 1883, Trần Trọng Kim chào đón Thế kỷ 20 như một sinh viên vừa thi đỗ trường Thông Ngôn. Ba năm sau, ông tốt nghiệp, trở thành công chức, đi làm Thông sự ở tỉnh Ninh Bình. Nhưng chỉ một năm sau thôi, con người tinh thông Hán học từ một gia đình Nho giáo đất Hà Tĩnh đã hiểu ra thời thế. Ông bước qua ngả khác.

*

blank
Năm 1945, Tháng Ba, ngày 11, “Tuyên Cáo Việt Nam độc lập” được chính thức ban hành bởi vua Bảo Đại.

Sau 24 năm chiến đấu một cách vô vọng, nước Nam đã mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp từ năm Trần Trọng Kim ra đời và sẽ khó giành lại độc lập nếu dân trí không thay đổi.

Năm 1905, Trần Trọng Kim lặn lội qua Pháp như một người thợ, mà để học hỏi thêm kiến thức mới qua nhiều trường nhiều lớp, từ thương mại đến sư phạm. Ông tốt nghiệp trường Sư Phạm Melun năm 1911 thì trở về nước làm nhà giáo. Suốt 30 năm sau đó, ông vừa dạy học, làm thanh tra giáo dục vừa tham gia việc mở mang dân trí, và trở thành nhà nghiên cứu nghiêm túc về văn hóa, lịch sử, tôn giáo và sư phạm.

Qua ba thập niên hoạt động và biên soạn, nhà mô phạm Trần Trọng Kim để lại gần hai chục tác phẩm, một kho tàng đồ sộ quý báu về các lãnh vực văn hóa của Việt Nam. Xuất bản từ năm 1919, bộ Việt Nam Sử Lược của ông là tác phẩm được tái bản nhiều nhất và cho đến nay vẫn là cuốn sử gối đầu giường của nhiều thế hệ.

Là người tinh thông học thuật Đông-Tây, Trần Trọng Kim còn có công lớn khi tìm cách duy trì di sản văn hóa Việt Nam nhưng truyền đạt theo phép ký âm mới, là chữ "Quốc ngữ" viết với mẫu tự La tinh. Nhờ bút pháp đơn giản, cô đọng mà dễ hiểu, ông giúp nhiều thế hệ về sau khỏi bị đứt đoạn với quá khứ. Và từ Trần Trọng Kim, dân ta đi được một bước dài về ngữ học, không viết như các thế hệ trước, còn tự tin hơn về khả năng diễn đạt của ngôn ngữ mới, với kho tự vựng và phong cách hiện đại.

Vào cảnh thanh bình, một học giả như Trần Trọng Kim ắt phải được dân ta tôn vinh. Ít ra, nhiều trường học, đường phố hay thư viện đã phải có tên của ông để đời sau khỏi quên công lao của một người tận tụy cho văn hóa nước nhà trong buổi giao thời.

Và sau một đời học hỏi rồi truyền bá, Trần Trọng Kim đã có thể về hưu ở tuổi lục tuần.

Nhưng đấy cũng là lúc thời cuộc xô đẩy lịch sử Việt Nam qua ngả khác với Thế Chiến II và việc Đế quốc Nhật đưa quân vào Đông Dương.

Trong Thế Chiến II tại Á Châu, bộ máy thực dân của các nước Âu Châu trên vùng Đông Nam Á đã sớm bị Nhật lật đổ, nhưng vì tấn công Trân Châu Cảng của Hoa Kỳ vào Tháng 12 năm 1941, Nhật khiến Mỹ nhập cuộc và mở ra chiến trường Thái Bình Dương.

Sau khi Pháp bị Đức đánh bại trong chớp nhoáng vào năm 1940, Nhật dàn xếp với Chính phủ Vichy thân Đức của Pháp để chiếm đóng Đông Dương. Nhật huy động kinh tế và sử dụng hạ tầng nơi đây để yểm trợ hoạt động quân sự tại Đông Nam Á và Thái Bình dương. Vì thế, trên lãnh thổ Việt Nam, bộ máy hành chính của Pháp vẫn được duy trì để Nhật tập trung nỗ lực vào các chiến dịch quân sự.

Với người Việt, đấy là một tình trạng bất thường và khốn khổ kéo dài gần bốn năm. Dưới bom đạn Đồng Minh ào ạt tấn công các căn cứ và đường chuyển vận của quân Nhật, chế độ thực dân Pháp vẫn tồn tại, nhưng nằm dưới bộ máy quân phiệt Nhật.

Ở ở dưới đáy là dân Việt lầm than, nhưng khát khao độc lập và hòa bình.

Thế rồi từ cuối năm 1944, khi quân Đồng Minh vào giải phóng nước Pháp tại Âu Châu và Chế độ Vichy tan rã thì Nhật Bản yếu thế dần tại Đông Dương trước cuộc tổng phản công của Hoa Kỳ và các đồng minh tại Á Châu. Giữa những nóng bỏng của Chiến trường Thái Bình dương, mùng chín Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính bộ máy cai trị của Pháp để ngừa người Pháp theo phe Kháng chiến của Tướng Charles de Gaulle cùng Đồng Minh tấn công. Khi ấy, dường như Hoa Kỳ lại chẳng có phản ứng, có lẽ vì Chính quyền của Tổng thống Franklin D. Roosevelt cũng chẳng ưa gì chính sách thuộc địa của các nước Âu Châu.

Sau vụ Đảo chính Nhật thì chế độ thực dân thực tế cáo chung trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng Nhật lại bị nguy cơ thất trận dưới tay Hoa Kỳ.

Nhật Bản bèn chuẩn bi trao trả độc lập cho hàng loạt quốc gia Đông Nam Á từng được họ "giải phóng" khỏi ách thuộc địa của Âu Châu để tạo thế ngăn ngừa các nước Âu Châu trở lại dưới danh nghĩa Đồng Minh chống lại trục Đức-Nhật-Ý.

Nghĩa là Thế Chiến II tàn lụi cũng mở ra cơ hội độc lập cho Việt Nam.

*

blank
Tháng Tư, ngày 19, nội các Trần Trọng Kim ra mắt quốc dân.

Trong hoàn cảnh "sáng chưa sáng hẳn, tối không đành" - chữ của Vũ Hoàng Chương - Nhật Bản đề nghị trả lại độc lập cho Việt Nam, với dụng tâm là nước Việt Nam được độc lập sẽ có lập trường "thân Nhật" và chống Pháp. Hoàng đế Bảo Đại khôn ngoan bắt lấy cơ hội ấy.

Đấy là lúc học giả Trần Trọng Kim miễn cưỡng bước vào chính trường sau nhiều lần thoái thác với Bảo Đại, để trở thành Thủ tướng đầu tiên của Đế quốc Việt Nam vừa tái sinh sau 62 năm mất chủ quyền.

Khi ấy, bài toán của nhà giáo Trần Trọng Kim gồm có hai mặt đều cực kỳ nan giải.

Trước hết, ông từng bước đấu tranh với Nhật để xây dựng độc lập thực tế trên cả nước thống nhất. Tức là nhờ Nhật mà xoá bỏ những áp đặt và quy định của Pháp từ thế kỷ trước. Song song, ôgng phải xây dựng được một bộ máy chính quyền khả dĩ giải quyết được bài toán dân sinh trên một đất nước tan hoang, đói khổ và loạn lạc.

Với Nhật Bản thì Trần Trọng Kim thành công cho nước Việt Nam, nhờ thế yếu của người Nhật, nhờ chính nghĩa của người Việt và sự thông minh của Bảo Đại. Nhất là nhờ tinh thần chính nhân quân tử của Trần Trọng Kim, vì ông chẳng mưu cầu gì cho bản thân mà chỉ nhìn vào đại thế. Nhiều người Nhật có văn hóa đã dành cho ông sự kính trọng đậm nét Á Đông.

Nhưng với bên trong thì Trần Trọng Kim thất bại. Ông rơi vào cảnh ngộ của người muốn xây mà có quá nhiều người lại muốn xoá!

Một số không nhỏ người Việt khi đó còn bỡ ngỡ với hoàn cảnh mới. Lại thấy việc xây dựng là quá khó, khó hơn là duy trì nguyên trạng để bảo toàn quyền lợi nhỏ nhoi của họ trong môi trường cũ. Trần Trọng Kim có thấy điều này và thẳng thắn viết ra với sự nghiêm khắc.

Nhưng nguyên trạng của Việt Nam đã thay đổi.

Ngoài cục diện quốc tế đang ập vào, một thay đổi lớn nhất là trong hàng ngũ những người đấu tranh cho độc lập lại xuất hiện lực lượng Việt Minh. Tổ chức này dựng chiêu bài giải phóng dân tộc cho độc lập để huy động quần chúng vào một dự án khác, là thực hiện giấc mơ cộng sản do nước khác lãnh đạo.

Họ khai thác mọi khó khăn của buổi giao thời và ra sức xoá bỏ tất cả những gì không thuộc "tôn giáo cộng sản" - chữ của Trần Trọng Kim - kể cả sát hại và thủ tiêu các nhóm đấu tranh cho độc lập nhưng theo khuynh hướng khác. Trần Trọng Kim cũng hiểu ra sự thể ấy và là một trong những người sớm nhất có nhận định chính xác nhất. Ông đánh giá người cộng sản ngay từ bản chất và cho đến nay sự thật ấy không thay đổi.

Khi Hoa Kỳ muốn sớm kết thúc chiến tranh bằng hai quả bom nguyên tử, Nhật Bản đành phải đầu hàng ngày 16 tháng 8 năm 1945 thì sự khờ khạo của người dân và mưu mô của Việt Minh lại dẫn đến một vụ cướp chính quyền tại Việt Nam trong khoảng trống được họ mệnh danh là "Cách mạng Tháng tám", vào ngày 19.

Bốn ngày sau, Chính phủ Trần Trọng Kim từ chức. Sau đó là một chuỗi dài của lầm than.

*

Nội các Trần Trọng Kim chỉ thực tế hoạt động được khoảng 120 ngày, trong điều kiện khó khăn trùng điệp và dồn dập, nhưng là chính quyền đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập kể từ năm 1883 và ngay trong nghịch cảnh cũng đã có những thành tựu rõ rệt.

Đó là giành lại độc lập trên một lãnh thổ thống nhất của Tổ quốc, kể cả Nam kỳ và ba thành phố xưa kia Pháp vẫn đòi trực tiếp quản trị, là Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Đó là xây dựng nền móng cải cách giáo dục từ cấp trung tiểu học trở lên, một kết quả không nhỏ và có giá trị cho đến sau này. Đó là vận động cứu đói đồng bào miền Bắc trong trận đói Ất Dậu, từ cuối năm 1944 qua đầu năm 1945.

Quan trọng nhất, Nội các Trần Trọng Kim đã thổi lên một luồng gió mới cho tinh thần độc lập dân tộc.

Sau một giai đoạn ngắn ngủi đó, các chính quyền kế tiếp, kể cả và nhất là Chính quyền Việt Minh, đã chẳng đạt những thành tựu như vậy.

Vì sau khi cướp được chính quyền, một cách bất ngờ trước sự ngơ ngác của chính các lãnh tụ đang chui nhủi ở Tân Trào, Chính quyền Việt Minh không ổn định được tình hình mà còn ra sức thủ tiêu đàn áp các nhân vật cũng mưu cầu độc lập theo phương pháp khác. Và cũng vì vậy, họ chẳng ngăn được Pháp quay trở lại Đông Dương.

Thực tế thì chính Hồ Chí Minh mới ngầm thỏa thuận việc đó để mượn tay Pháp tiêu diệt các lực lượng quốc gia. Đến khi yếu thế thì lại giấu bớt bản chất cộng sản để kêu gọi đại đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm trong cuộc Kháng chiến chống Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946..

Ngược lại, Pháp cũng chẳng phải là tay vừa.

Mượn thế Đồng Minh, Pháp vẫn giữ lại Đông Dương dưới một chiêu bài liên hiệp. Đại diện của họ có tìm gặp Trần Trọng Kim để mời ông lập nội các mới cho Hoàng đế Bảo Đại. Biết thực tâm của họ, Trần Trọng Kim nêu bảy yêu cầu, là những điều kiện căn bản cho nền độc lập đích thực. Sau khi lần lữa, Pháp gạt các điều kiện ấy qua một bên và tìm giải pháp nhân sự khác, trong khi Việt Minh sẽ được thêm một lợi thế là Cộng sản Trung Hoa chiến thắng ở Hoa lục năm 1949 và Việt Nam trôi vào cuộc chiến dài nhất thế kỷ, để ngày nay độc lập vẫn chưa có....

Sau những biến cố đau thương này, Trần Trọng Kim lưu vong trong nhiều năm tại Nam Vang, rồi trở về sống lặng lẽ và tạ thế ở Đà Lạt ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuồi.

*

blank
Di ảnh Thủ Tướng Trần Trọng Kim và bìa sách “Một Cơn Gió Bụi” vừa được cơ sở Sống tái bản tại California.

Chính là trong giai đoạn cuối cùng này, ông đã viết và xuất bản cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi mà quý vị cầm trong tay.

Đây là cuốn hồi ký mà cũng là sử liệu đáng quý từ một sử gia chân thật, và một chính trị gia bất đắc dĩ, về một giai đoạn nhiễu nhương và bi thương của đất nước. Trần Trọng Kim kể lại mọi sự một cách chân phương với văn phong đơn giản súc tích cố hữu. Nhưng cũng có sự phê phán đĩnh đạc về thái độ của người Nhật, người Pháp, về tư cách và khả năng của nhiều nhân vật nổi tiếng thời đó, từ Hoàng đế Bảo Đại cho tới các lãnh tụ phe quốc gia và những kẻ trở cờ ở giữa.

Lời phê phán xác đáng nhất, mang tính chất tiên tri và có giá trị cho đến ngày nay, được Trần Trọng Kim giành cho người cộng sản. Cho cái tội cõng rắn cắn gà nhà mà ông muốn tránh khi từ chối không cho quân Nhật tiêu diệt lực lượng Việt Minh thời đó còn trứng nước mà đã đầy dã tâm.

Khi nhìn lại thì nhiều người có thể phê phán Trần Trọng Kim là một học giả thiếu kinh nghiệm chính trị. Lối phê phán đó xin dành cho chính các tác giả. Vì Trần Trọng Kim nhìn cục diện từ một giác độ khác, giác độ của đạo đức con người kết hợp với quyền lợi dân tộc cho một nước Việt Nam nhân bản và trường cửu. Ngày nay, trong thế giới cộng sản, nhiều người cũng hiểu ra điều ấy nên đánh giá lại con người và thành tích của Trần Trọng Kim, nhất là khi đối chiếu với tai họa Hồ Chí Minh.

Cũng vì lý do đó, cơ sở Xuất bản Sống đã chẳng ngại khả năng giới hạn mà tái bản cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi. Đây là một việc tối thiểu của thế hệ hậu sinh để sau này dân ta nhìn lại lịch sử và con người Trần Trọng Kim với công tâm.

Trong nỗ lực ấy, chúng tôi được lợi thế của kẻ đi sau, nên thu thập dữ kiện và đóng góp của nhiều người đi trước. Đầu tiên là ấn bản điện tử của cuốn hồi ký trên các trang mạng Talawas và namkyluctinhê cho đến một số tài liệu khác được chúng tôi đưa vào phần Phụ Lục.

Với thiện chí ấy, cơ sở Xuất bản Sống xin kính cẩn cảm tạ các tác giả và thân hữu gần xa. Và thành thật mong đợi là sau này sẽ có nhiều người viết lại và viết rõ hơn nữa về Trần Trọng Kim.

Cơ sở Xuất bản SỐNG

Tháng Năm, 2015, tại California, Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.