Được biết, vào lúc 3 giờ 46 phút chiều Thứ Hai, dân biểu Sercombe đã mở đầu bản kiến nghị của mình bằng cách đưa ra những bằng chứng cụ thể trong bản báo cáo năm 1999 của tổ chức Giám Sát Nhân Quyền Quốc Tế (International and Human Rights Watch), chứng tỏ nhân quyền tại Việt Nam vẫn bị chế độ Hà Nội chà đạp một cách trắng trợn. Cụ thể, ông Sercombe cho biết, trong năm 1999, tại Việt Nam ít nhất 56 tù nhân lương tâm bị giam cầm, 53 người bị tuyên án tử hình, 18 người bị hành quyết. Trong khi chế độ Hà Nội trả tự do cho 15 người tù lương tâm thì cũng cùng thời gian đó, chế độ bắt giam thêm 10 người tù lương tâm khác, và khoảng 40 người khác, sau khi bị xét xử một cách qua loa và bất công, đã bị tống tù vì tội bất đồng chính kiến.
Dân biểu Sercombe khẳng định, mặc dù trong thời gian gần đây, chính phủ Hà Nội đã trả tự do một số tù chính trị, nhưng rõ ràng, chính phủ đó vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách chà đạp nhân quyền, đàn áp tôn giáo, khiến những người bất đồng chính kiến tiếp tục bị giam cầm, bị quản thúc tại gia hoặc tại chùa chiền, nhà thờ...
Cũng trong bài diễn văn, dân biểu Sercombe đã viện dẫn hai trường hợp cụ thể chứng tỏ sự vi phạm nhân quyền một cách trắng trợn của chế độ Hà Nội. Trường hợp thứ nhất là tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một trí thức nổi tiếng, chỉ vì có tư tưởng tự do dân chủ, đã trở thành nạn nhân, liên tục bị chế độ Hà Nội theo dõi, ngược đãi và khủng bố. Trường hợp thứ hai là thượng tọa Thích Quảng Độ, một vị chân tu, đức độ, hiện đang được nhiều danh nhân trên thế giới, bao gồm cả Đức Dalai Lama, đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình.
Để chứng minh thực trạng phi tự do dân chủ trên toàn cõi Việt Nam, dân biểu Sercombe đã viện dẫn nguyên văn câu nói của thượng tọa Thích Quảng Độ khi thượng tọa mô tả việc chính phủ Hà Nội trả tự do cho ngài: "Tôi ra khỏi nhà tù nhỏ để rồi bước vô một nhà tù khác, rộng lớn hơn". Đặc biệt, dân biểu Sercombe cũng đã đưa ra các bằng cớ, các con số cụ thể chứng tỏ cộng sản Việt Nam đang công khai đàn áp, bắt bớ Phật Giáo Hòa Hảo.
Sau khi đưa ra những bằng chứng cụ thể chứng tỏ việc vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội là một thực tế hiển nhiên, dân biểu Sercombe đã thẳng thắn chỉ trích đường lối ngoại giao thực dụng vụ lợi của chính phủ hiện hành. Ông cho rằng, những chính sách đối với Việt Nam mà chính phủ Úc đang theo đuổi đã không đáp ứng đúng vai trò, trách nhiệm và truyền thống của một quốc gia tự do dân chủ như Úc Đại Lợi. Ông Sercombe cũng kêu gọi quốc hội Úc ủng hộ kiến nghị MHVN để chính phủ Úc, nhất là bộ ngoại giao Úc, có bổn phận thực thi những trách nhiệm tinh thần cũng như vật chất, hậu thuẫn cho tự do nhân quyền tại Việt Nam.
Trong dịp này, nữ dân biểu Julia Irwin, đại diện vùng Fowler, cũng đã lên tiếng hậu thuẫn cho kiến nghị MHVN. Trong khoảng thời gian 5 phút, bà đã trình bầy một cách ngắn gọn quan điểm của bà về MHVN và những trách nhiệm, bổn phận, chính phủ Úc phải thực hiện. Theo bà, nhiều cử tri gốc Việt đã gặp gỡ, gọi điện thoại, gửi thư trình bầy những quan tâm của họ đối với nhân quyền tại Việt Nam và bầy tỏ thái độ hoàn toàn hậu thuẫn cho kiến nghị của dân biểu Sercombe. Bà chân thành cảm ơn sự quan tâm sâu xa của cộng đồng Việt Nam, và bà rất lấy làm hân hạnh đại diện cho tiếng nói của cộng đồng Việt Nam tại nghị trường liên bang. Bà cho rằng, Úc Đại Lợi phải có bổn phận đối với tự do nhân quyền tại Việt Nam vì đó là bổn phận có tính cách hỗ tương đối với những viện trợ chính phủ Úc đã cho và chính phủ Việt Nam đã nhận.
Đề cập đến cầu Mỹ Thuận, bà nhận xét, đây là một công trình viện trợ lớn nhất của chính phủ Úc cho Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chính phủ Hà Nội không có những biện pháp, chính sách cụ thể nhằm bảo vệ quyền tự do dân chủ của người dân Việt Nam, thì chắc chắn, cầu Mỹ Thuận là một thí dụ chứng tỏ chính phủ Úc đã ở thế hạ phong trong vấn đề nhân quyền Việt Nam.
Bà Irwin khẳng định, duy trì tình bằng hữu giữa hai quốc gia Úc Việt là quan trọng, nhưng tình bằng hữu đó phải được thử thách. Những gì đã xảy ra cách đây 25 trước đáng được gạt sang một bên để hai quốc gia cùng làm việc, phụng sự cho phúc lợi và tình giao hảo chung của cả hai dân tộc. Bà nhấn mạnh, Úc Đại Lợi luôn luôn là một người bạn gần gũi đối với chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, những người bạn mà chính phủ Việt Nam cần gần gũi hơn cả, chính là người Việt Nam, bất kể họ đang ở đâu, hay có những dị biệt gì về tôn giáo, chính kiến.
Nữ dân biểu Irwin tin rằng, trong thời đại truyền thông Internet hiện nay, bất cứ hành động, chính sách nào vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do, dù chúng xảy ra ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, lập tức cả thế giới hay biết. Bất cứ ai vì tranh đấu cho tự do dân chủ, tự do tôn giáo mà bị bắt bớ, cầm tù, lập tức tin đó sẽ loan truyền khắp mọi nơi trên bề mặt địa cầu. Vì vậy, chế độ nào theo đuổi đường lối kìm kẹp tự do dân chủ, tự do tôn giáo, chế độ đó sẽ gặp những phản ứng bất lợi của cộng đồng thế giới.
Song song với việc vận động các dân biểu hậu thuẫn kiến nghị MHVN, trong thời gian gần đây, Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu cũng đã thực hiện một loạt các hoạt động nhằm tạo ảnh hưởng sâu rộng trong chính giới Úc. Cụ thể nhất là việc mời Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ viếng thăm Úc Châu, tiếp xúc với một số dân biểu, thượng nghị sĩ Úc, và trò chuyện cùng đồng bào tại các tiểu bang. Kết quả, theo theo bản tin của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (CĐVNTD/UC), chiều Thứ Năm 6/4/2000 vừa qua, Thượng Nghị Sĩ Brett Mason (đảng Tự Do, Queensland) đã đọc một bài diễn văn trước Quốc Hội liên bang về cuộc gặp gỡ của ông với Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ trong hạ tuần tháng Ba, khi Linh mục Lễ viếng thăm Brisbane theo lời mời của CĐNVTD Queensland.
TNS Mason dùng trường hợp của LM Lễ như một trường hợp tiêu biểu của sự vi phạm nhân quyền của nhà nước Cộng sản Việt Nam. Ông nói "những người hùng thầm lặng của thời đại mới, như [lãnh tụ nghiệp đoàn] Lech Walesa của Ba Lan, [nhà văn] Vaclav Havel của Tiệp Khắc, [bác học] Alexander Sozhenitsyn của Nga, và hàng ngàn người khác mà không bao giờ được lịch sử ghi danh đã viết những trang giấy của cuốn sách tự do. LM Nguyễn Hữu Lễ có một chỗ đứng danh dự giữa những người này".