Nơi đây chúng ta không bàn chuyện ông Tướng Nguyễn Quý Ngọ vừa từ trần. Nơi đây
chỉ bàn về chuyện nhà nước Hà Nội nghĩ ra độc chiêu mời nhiều cặp nam nữ xồn xồn
ra nơi sân trước tượng đài Vua Lý Thái Tổ để “múa đôi,” không, đúng ra là để
“múa võ ngựa,” nhằm phá cuộc biểu tình ngày 16-2-2014 ở Hà Nội để tưởng niệm 35
năm ngày quân Trung Quốc tràn vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam.
Vâng, đúng là võ ngựa, họ nhảy ngựa cả ở gót chân, nhảy ngựa ở cả đế giày tây của quý ông xồn xồn, nhảy ngựa ở các giày cao gót của quý bà xồn xồn... ngựa trào lên ngập cả tâm hồn -- nếu họ có cái gì gọi là tâm hồn.
Kiếm đâu ra quý vị này với độc chiêu võ ngựa như thế? Có phải từ các câu lạc bộ khiêu vũ Hà Nội? Hay từ Hội Văn Hóa UNESCO Ba Đình?
Có thấy rằng Vua Lý Thái Tổ rất buồn chăng? Khi một thời ngựa là để cùng quân ra trận, không phải để chế biến thành kiểu nhảy ngựa múa đôi như thế.
Ca dao ông bà mình ngày xưa cũng kể chuyện ngựa rất tình từ, rất lãng mạn. Thí dụ như các dòng thơ:
“Chiều chiều mượn ngựa ông Đô,
Mượn kiệu chú lính đưa cô tôi về.
Cô về chẳng lẽ về không,
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau.
Ngựa ô đi tới Quán Cau,
Ngựa hồng đủng đỉnh còn sau Gò Điều.”
Dòng ca dao thanh thoát, thơ mộng, không vướng bận trần gian thô tục kiểu Câu lạc bộ Múa Đôi được công an thuê tới nhảy xập xình, nhảy tập thể, nhảy nắm tay nhau, nhảy cạ đôi chân -- trời ạ, sao ngựa quá nhỉ. Nói thể, nên thấy rằng ngựa là loài vật rất tuyệt vời, ngựa là để ra tác chiến, để ra trận, và khi chiến mã trở về lại, ngựa sẽ là đê đón nàng về dinh – không phảỉ để xuống cấp thành kiểu nhảy trên nỗi đau của cả dân tộc như thế.
Ngay cả lãng mạn như bài ngựa ô, khi chiến binh thời bình, đã dùng ngựa để đón nàng, cũng không hề gợn lên chút gì có thể làm người xem nổi giận, như vần ca dao:
“Khớp con ngựa ngựa ô.
Khớp con ngựa ngựa ô,
Ngựa ô anh thắng, anh thắng kiệu vàng.
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen, búp sen lá dậm,
Dây cương nhuộm thắm cán roi anh bịt đồng vàng...”
Không hề bị chỉ đạo vì điệu nhạc đầy âm mưu nào cả.
Ông bà mình ngày xưa khi luyện võ để bảo vệ tổ quốc, cũng đã chọn ngựa làm bạn để cùng luyện võ.
Bải viết tưạ đề “Tinh hoa võ ngựa trong võ thuật cổ truyền dân tộc” trên báo Người Đưa Tin ngày 31-1-2014, ghi lời một võ sư cổ truyền:
“Bàn về võ ngựa trong di sản võ thuật của dân tộc, võ sư Nguyễn Văn Thắng cho rằng: Võ ngựa được ứng dụng phong phú và linh hoạt trong lịch sử dân tộc. Từ việc cha ông ta đã dùng ngựa để di chuyển trong chiến đấu, đến việc mô phỏng hình ảnh con ngựa để sáng tạo ra các đòn đánh, thế đánh hữu dụng. Di sản về võ ngựa trong nền võ thuật của dân tộc rất lớn nhưng điểm độc đáo nhất của võ ngựa phải kể đến các thế đá nghịch mã, các thế hồi mã cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các thế võ ngựa và cách di chuyển chiến đấu của ngựa tạo nên những thế đánh độc đáo và đầy sức mạnh.
Theo võ sư Văn Thắng, trong võ ngựa trước hết phải nhắc đến việc dùng ngựa di chuyển trong chiến đấu. Trong các thế di chuyển độc đáo nhất là thế di mã và thế phi hành mã. Các thế di chuyển này luôn được kỵ binh thời xưa ứng dụng nhằm tận dụng tốc độ và sức mạnh của ngựa để di chuyển, luồn lách trong chiến đấu, tạo ra sự lấn lướt, tiếp cận và tiêu diệt kẻ thù. Phần quan trọng nhất của võ ngựa đó chính là các đòn, thế mô phỏng hình ảnh con ngựa...”(hết trích)
Thế đấy nhé, có Vua Lý Thái Tổ chứng giám, nhìn xuống đấy. Võ ngựa mà các cặp xồn xồn ôm nhau “múa đôi” đó không phảỉ là võ ngựa trong di sản dân tộc, kiểu các cặp ôm nhau xập xình hoàn toàn không phải cách “tận dụng tốc độ và sức mạnh của ngựa để di chuyển, luồn lách trong chiến đấu, tạo ra sự lấn lướt, tiếp cận và tiêu diệt kẻ thù.”
Câu lạc bộ Múa Đôi kia không hề liên hệ gì tới võ ngưạ của dân tộc.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài viết tưạ đề “Đức vua trầm tưởng” trên mạng Bauxite VN ngày 21-2-2014 – bài này trích như sau:
“Lý Thái Tổ nhíu đôi mắt lo âu,
Nhìn dõi xuống chân mình... rõ ràng một lũ Tàu
bụng ưỡn ẹo, ngoáy mông, ca những lời nhí nhố:
“Cha cha cha, cha cha cha, cha cha cha
Cô gái đẹp trên đường phố cất tiếng ca vui trong thời tiết âu sầu”(1).
Ông tự hỏi: “Sao nảy nòi ra một lũ dân mất gốc,
Ba mươi lăm năm sừng sững mối hận quân cướp nước
sao không biết buồn đau?
Thác Bản Giốc chúng ngoạm luôn một nửa,
Ải Nam Quan đã thuộc về lãnh thổ chúng từ lâu.
Núi Đất (chúng gọi Lão Sơn) chúng chà đi xát lại, chôn sống cả trăm ngàn anh hùng còn sống sót,
Sáu vạn con em mình ngã xuống để giữ vững biên cương Tổ quốc
nay mồ mả nơi đâu?”(hết trích)
Phần chú thích (1) được GS Nguyễn Huệ Chi giảỉ thích như sau:
“(1) Phỏng dịch lời trong một điệu vũ nhạc cổ Trung Quốc “Trung Quốc cáp cáp” (Đúng là Trung Quốc), được lệnh “cấp trên” cho phổ biến để các “dư luận viên” múa nhảy xập xình trong buổi sáng ngày 16-2-2014 trên quảng trường Lý Thái Tổ ở vườn hoa Chí Linh nhằm ngăn chặn dân chúng mít tinh kỷ niệm ngày mấy chục vạn giặc Tàu do Đặng Tiểu Bình xua xuống đánh chiếm biên giới Việt Nam 35 năm trước: “Cha cha cha, cha cha cha, cha cha cha / Cô gái Trung Quốc xinh đẹp như đóa hoa / Đi trên đường phố muốn nhìn ngó khắp nơi / Cô nương có đôi môi hồng tươi / Chính lúc nàng ngoảnh lại cất tiếng vui tươi cha cha cha / Là lúc tiết trời hoan lạc / Chính lúc nàng ngoảnh lại cất tiếng vui tươi cha cha cha / Là lúc thời tiết âu sầu...”...”(hết chú thích)
Thiệt là hết nước nói. Bụng ưỡn ẹo, ngoáy mông, ca nhí nhố... Đúng vậy, vị Giáo sư mô tả đúng hình ảnh như thế.
Trong khi đó, nhà thơ Trần Mạnh Hảo trong bài viết trên mạng Dân Làm Báo tựa đề “Lời sáu vạn người đã hi sinh chống giặc Tàu xâm lược: Sao lại giỗ chúng tôi bằng bài khiêu vũ: “Trung Quốc chính nghĩa”?” đã cho biết, thựa ra điệu nhạc kia là nhạc chôm, nghĩa là nhạc sĩ Việt chôm của nhạc sĩ Tàu.
Nhà thơ họ Trần cho biết rằng FBker Thùy Trang đã chứng minh bản nhạc để nhảy nhót ăn mừng sáng nay là nhạc Tàu, được nhạc sĩ Hồ Quang Hiếu đạo nhạc, đặt lời Việt là "Con bướm xuân". Nguyên bản của bài hát "Trung Quốc Chính Nghĩa”....
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết những dòng thơ như sau:
“Lời sáu vạn người đã hi sinh chống giặc Tàu xâm lược: Sao lại giỗ chúng tôi bằng bài khiêu vũ: “Trung Quốc chính nghĩa”?
Nếu không có ngày 17-02-1979
Nếu không có cuộc xâm lăng của sáu mươi vạn quân Tàu xâm lược
Sáu vạn người Việt chúng tôi đâu đã bỏ mình
Sao nhà nước mới 35 năm đã vội quên cuộc chiến tranh tàn khốc
Quên thắp nhang, quên tưởng niệm đồng bào chiến sĩ đã hi sinh…
.Không, không, không…
Nhà nước này vẫn nhớ đinh ninh
Nhớ sáu mươi vạn Hoa quân nhập Việt
Đốt sạch, phá sạch, giết sạch biên giới phía Bắc quê hương mình
.Nên sáng 16-2-2014 trước tượng vua Lý vườn hoa Chí Linh
Khi một nhóm đồng bào mang hương hoa đến giỗ sáu vạn người hi sinh
Cũng là lúc đám ăn mặc hở hang chiếm quảng trường tưng mừng khiêu vũ
Đây là Hà Nội hay Bắc Kinh
Mà hàng trăm công an chìm canh chừng cho hàng trăm người khiêu vũ
Họ múa theo nhạc nền bài hát Tàu: TRUNG HOA CHÍNH NGHĨA…
Các ông các bà cầm quyền và ăn chơi nhảy nhót ơi
Xin các ông bà đừng giết sáu vạn chiến sĩ đồng bào chúng tôi lần nữa
Chúng tôi đã bị giặc Tàu giết ba mươi nhăm năm rồi
Chúng tôi cứ tưởng người chống xâm lăng như chúng tôi mới là chính nghĩa
Hóa ra giặc ngoại xâm ngày ấy nay thoắt thành chính nghĩa, trời ơi!
Sài Gòn ngày 18-02-2014
Trần Mạnh Hảo”(hết trích)
Than ôi, một thời là vó ngựa quân Nguyên, quân Thanh... từ phương Bắc tràn vào. Và bây giờ là những “bước nhảy ngựa múa đôi” từ Ba Đình xốc tới.
Nghẹn lời vậy, nói hết nổi. Nói hết nổi.
Vâng, đúng là võ ngựa, họ nhảy ngựa cả ở gót chân, nhảy ngựa ở cả đế giày tây của quý ông xồn xồn, nhảy ngựa ở các giày cao gót của quý bà xồn xồn... ngựa trào lên ngập cả tâm hồn -- nếu họ có cái gì gọi là tâm hồn.
Kiếm đâu ra quý vị này với độc chiêu võ ngựa như thế? Có phải từ các câu lạc bộ khiêu vũ Hà Nội? Hay từ Hội Văn Hóa UNESCO Ba Đình?
Có thấy rằng Vua Lý Thái Tổ rất buồn chăng? Khi một thời ngựa là để cùng quân ra trận, không phải để chế biến thành kiểu nhảy ngựa múa đôi như thế.
Ca dao ông bà mình ngày xưa cũng kể chuyện ngựa rất tình từ, rất lãng mạn. Thí dụ như các dòng thơ:
“Chiều chiều mượn ngựa ông Đô,
Mượn kiệu chú lính đưa cô tôi về.
Cô về chẳng lẽ về không,
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng theo sau.
Ngựa ô đi tới Quán Cau,
Ngựa hồng đủng đỉnh còn sau Gò Điều.”
Dòng ca dao thanh thoát, thơ mộng, không vướng bận trần gian thô tục kiểu Câu lạc bộ Múa Đôi được công an thuê tới nhảy xập xình, nhảy tập thể, nhảy nắm tay nhau, nhảy cạ đôi chân -- trời ạ, sao ngựa quá nhỉ. Nói thể, nên thấy rằng ngựa là loài vật rất tuyệt vời, ngựa là để ra tác chiến, để ra trận, và khi chiến mã trở về lại, ngựa sẽ là đê đón nàng về dinh – không phảỉ để xuống cấp thành kiểu nhảy trên nỗi đau của cả dân tộc như thế.
Ngay cả lãng mạn như bài ngựa ô, khi chiến binh thời bình, đã dùng ngựa để đón nàng, cũng không hề gợn lên chút gì có thể làm người xem nổi giận, như vần ca dao:
“Khớp con ngựa ngựa ô.
Khớp con ngựa ngựa ô,
Ngựa ô anh thắng, anh thắng kiệu vàng.
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen, búp sen lá dậm,
Dây cương nhuộm thắm cán roi anh bịt đồng vàng...”
Không hề bị chỉ đạo vì điệu nhạc đầy âm mưu nào cả.
Ông bà mình ngày xưa khi luyện võ để bảo vệ tổ quốc, cũng đã chọn ngựa làm bạn để cùng luyện võ.
Bải viết tưạ đề “Tinh hoa võ ngựa trong võ thuật cổ truyền dân tộc” trên báo Người Đưa Tin ngày 31-1-2014, ghi lời một võ sư cổ truyền:
“Bàn về võ ngựa trong di sản võ thuật của dân tộc, võ sư Nguyễn Văn Thắng cho rằng: Võ ngựa được ứng dụng phong phú và linh hoạt trong lịch sử dân tộc. Từ việc cha ông ta đã dùng ngựa để di chuyển trong chiến đấu, đến việc mô phỏng hình ảnh con ngựa để sáng tạo ra các đòn đánh, thế đánh hữu dụng. Di sản về võ ngựa trong nền võ thuật của dân tộc rất lớn nhưng điểm độc đáo nhất của võ ngựa phải kể đến các thế đá nghịch mã, các thế hồi mã cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các thế võ ngựa và cách di chuyển chiến đấu của ngựa tạo nên những thế đánh độc đáo và đầy sức mạnh.
Theo võ sư Văn Thắng, trong võ ngựa trước hết phải nhắc đến việc dùng ngựa di chuyển trong chiến đấu. Trong các thế di chuyển độc đáo nhất là thế di mã và thế phi hành mã. Các thế di chuyển này luôn được kỵ binh thời xưa ứng dụng nhằm tận dụng tốc độ và sức mạnh của ngựa để di chuyển, luồn lách trong chiến đấu, tạo ra sự lấn lướt, tiếp cận và tiêu diệt kẻ thù. Phần quan trọng nhất của võ ngựa đó chính là các đòn, thế mô phỏng hình ảnh con ngựa...”(hết trích)
Thế đấy nhé, có Vua Lý Thái Tổ chứng giám, nhìn xuống đấy. Võ ngựa mà các cặp xồn xồn ôm nhau “múa đôi” đó không phảỉ là võ ngựa trong di sản dân tộc, kiểu các cặp ôm nhau xập xình hoàn toàn không phải cách “tận dụng tốc độ và sức mạnh của ngựa để di chuyển, luồn lách trong chiến đấu, tạo ra sự lấn lướt, tiếp cận và tiêu diệt kẻ thù.”
Câu lạc bộ Múa Đôi kia không hề liên hệ gì tới võ ngưạ của dân tộc.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài viết tưạ đề “Đức vua trầm tưởng” trên mạng Bauxite VN ngày 21-2-2014 – bài này trích như sau:
“Lý Thái Tổ nhíu đôi mắt lo âu,
Nhìn dõi xuống chân mình... rõ ràng một lũ Tàu
bụng ưỡn ẹo, ngoáy mông, ca những lời nhí nhố:
“Cha cha cha, cha cha cha, cha cha cha
Cô gái đẹp trên đường phố cất tiếng ca vui trong thời tiết âu sầu”(1).
Ông tự hỏi: “Sao nảy nòi ra một lũ dân mất gốc,
Ba mươi lăm năm sừng sững mối hận quân cướp nước
sao không biết buồn đau?
Thác Bản Giốc chúng ngoạm luôn một nửa,
Ải Nam Quan đã thuộc về lãnh thổ chúng từ lâu.
Núi Đất (chúng gọi Lão Sơn) chúng chà đi xát lại, chôn sống cả trăm ngàn anh hùng còn sống sót,
Sáu vạn con em mình ngã xuống để giữ vững biên cương Tổ quốc
nay mồ mả nơi đâu?”(hết trích)
Phần chú thích (1) được GS Nguyễn Huệ Chi giảỉ thích như sau:
“(1) Phỏng dịch lời trong một điệu vũ nhạc cổ Trung Quốc “Trung Quốc cáp cáp” (Đúng là Trung Quốc), được lệnh “cấp trên” cho phổ biến để các “dư luận viên” múa nhảy xập xình trong buổi sáng ngày 16-2-2014 trên quảng trường Lý Thái Tổ ở vườn hoa Chí Linh nhằm ngăn chặn dân chúng mít tinh kỷ niệm ngày mấy chục vạn giặc Tàu do Đặng Tiểu Bình xua xuống đánh chiếm biên giới Việt Nam 35 năm trước: “Cha cha cha, cha cha cha, cha cha cha / Cô gái Trung Quốc xinh đẹp như đóa hoa / Đi trên đường phố muốn nhìn ngó khắp nơi / Cô nương có đôi môi hồng tươi / Chính lúc nàng ngoảnh lại cất tiếng vui tươi cha cha cha / Là lúc tiết trời hoan lạc / Chính lúc nàng ngoảnh lại cất tiếng vui tươi cha cha cha / Là lúc thời tiết âu sầu...”...”(hết chú thích)
Thiệt là hết nước nói. Bụng ưỡn ẹo, ngoáy mông, ca nhí nhố... Đúng vậy, vị Giáo sư mô tả đúng hình ảnh như thế.
Trong khi đó, nhà thơ Trần Mạnh Hảo trong bài viết trên mạng Dân Làm Báo tựa đề “Lời sáu vạn người đã hi sinh chống giặc Tàu xâm lược: Sao lại giỗ chúng tôi bằng bài khiêu vũ: “Trung Quốc chính nghĩa”?” đã cho biết, thựa ra điệu nhạc kia là nhạc chôm, nghĩa là nhạc sĩ Việt chôm của nhạc sĩ Tàu.
Nhà thơ họ Trần cho biết rằng FBker Thùy Trang đã chứng minh bản nhạc để nhảy nhót ăn mừng sáng nay là nhạc Tàu, được nhạc sĩ Hồ Quang Hiếu đạo nhạc, đặt lời Việt là "Con bướm xuân". Nguyên bản của bài hát "Trung Quốc Chính Nghĩa”....
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết những dòng thơ như sau:
“Lời sáu vạn người đã hi sinh chống giặc Tàu xâm lược: Sao lại giỗ chúng tôi bằng bài khiêu vũ: “Trung Quốc chính nghĩa”?
Nếu không có ngày 17-02-1979
Nếu không có cuộc xâm lăng của sáu mươi vạn quân Tàu xâm lược
Sáu vạn người Việt chúng tôi đâu đã bỏ mình
Sao nhà nước mới 35 năm đã vội quên cuộc chiến tranh tàn khốc
Quên thắp nhang, quên tưởng niệm đồng bào chiến sĩ đã hi sinh…
.Không, không, không…
Nhà nước này vẫn nhớ đinh ninh
Nhớ sáu mươi vạn Hoa quân nhập Việt
Đốt sạch, phá sạch, giết sạch biên giới phía Bắc quê hương mình
.Nên sáng 16-2-2014 trước tượng vua Lý vườn hoa Chí Linh
Khi một nhóm đồng bào mang hương hoa đến giỗ sáu vạn người hi sinh
Cũng là lúc đám ăn mặc hở hang chiếm quảng trường tưng mừng khiêu vũ
Đây là Hà Nội hay Bắc Kinh
Mà hàng trăm công an chìm canh chừng cho hàng trăm người khiêu vũ
Họ múa theo nhạc nền bài hát Tàu: TRUNG HOA CHÍNH NGHĨA…
Các ông các bà cầm quyền và ăn chơi nhảy nhót ơi
Xin các ông bà đừng giết sáu vạn chiến sĩ đồng bào chúng tôi lần nữa
Chúng tôi đã bị giặc Tàu giết ba mươi nhăm năm rồi
Chúng tôi cứ tưởng người chống xâm lăng như chúng tôi mới là chính nghĩa
Hóa ra giặc ngoại xâm ngày ấy nay thoắt thành chính nghĩa, trời ơi!
Sài Gòn ngày 18-02-2014
Trần Mạnh Hảo”(hết trích)
Than ôi, một thời là vó ngựa quân Nguyên, quân Thanh... từ phương Bắc tràn vào. Và bây giờ là những “bước nhảy ngựa múa đôi” từ Ba Đình xốc tới.
Nghẹn lời vậy, nói hết nổi. Nói hết nổi.
Gửi ý kiến của bạn