Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. “Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba ‘Tuesday’ mỗi tuần).
LÝ THÁI TỔ: LÝ CÔNG UẨN
(974 - 1028)
Lý Công Uẩn quê châu Cổ Pháp (thuộc Bắc Giang). Theo truyền thuyết, bà Phạm Thị đang mang bầu, vào chùa Ứng Tâm xin tá túc qua đêm, đêm ấy lại sinh một bé trai. Đứa bé được 3 tuổi, bà đem cho thiền sư Lý Khánh Vân làm con nuôi, đứa bé được đặt tên là Lý Công Uẩn.
Khi được 9 tuổi, Lý Công Uẩn theo Vạn Hạnh thiền sư học tập, Công Uẩn hàng năm theo thiền sư Vạn Hạnh vào hầu vua Lê ở Hoa Lư. Lý Công Uẩn được vua yêu mến, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Vua còn gả Công chúa Lê Thị Phất Ngân, sau này sinh ra Lý Phật Mã và Công Uẩn được phong làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư.
Khi Lê Trung Tông tức Thiếu Đế bị Lê Long Đĩnh sai người giết chết, Công Uẩn thương tiếc Thiếu Đế, đã can đảm ở lại ôm thây vua mà khóc, và xin an táng. Vua Lê Ngoạ Triều thấy vậy không bắt tội, mà còn cảm động, cho là người trung liệt, phong Công Uẩn chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh mất, con còn quá nhỏ, và nhiều người còn oán hận Lê Ngọa Triều, quan Chi hậu Đào Cam Mộc cùng quần thần, đồng lòng phù trợ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Lý Công Uẩn từ chối nhiều lần, nên thiền sư Vạn Hạnh (sư phụ Lý Công Uẩn) nói: “Ta nên nhập thế giúp đời, đời được yên ổn thì đạo mới vững vàng”. Lý Công Uẩn nghe theo, mặc áo long bào lên ngôi hoàng đế vào năm 1010, lấy đế hiệu Lý Thái Tổ.
Đầu năm 1010, vua cử Viên ngoại lang Lương Nhâm Văn và Lê Tài Văn qua Tống gây hòa hiếu. Đến tháng chạp năm 1010, sứ Tống đem sắc phong Lý Thái tổ là Giao Chỉ Quận vương.
Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên, tức năm 1010, Lý Thái Tổ thấy thành Hoa Lư chật hẹp và không có đế vượng, nên dời đô về La Thành (Đại La), đến nơi thấy có rồng vàng bay lên, nên đổi La Thành là thành Thăng Long (Hà Nội bây giờ).
Vua Lý Thái Tổ đổi Hoa Lư, thành phủ Trường An. Đổi Cổ Pháp, thành phủ Thiên Đức, chia nước làm 24 lộ, để tiện cho việc hành chánh. Lúc bấy giờ nhà Tống, trong nước đang gặp khó khăn, không dám gây hấn với nước ta. Chiêm Thành, Chân Lạp đều sang triều cống, nên lân bang thuận hòa.
Lý Thái tổ cho sửa sang và phát triển nông nghiệp, đắp đê Cơ Xá để tránh ngập lụt. Năm 1016, vua ra lệnh tha thuế cho dân ba năm. Vua lo việc văn học, cho lập văn miếu để phát huy Nho học, mở khoa thi Tam giáo (Khổng, Phật, Lão). Phật giáo thời nhà Lý được khuyến khích. Năm 1018 vua sai Nguyễn Đạo Thành qua Tàu thỉnh kinh Tam Tạng và cho xây chùa chiền. Vua Lý Thái Tổ là con nuôi và là đệ tử của các vị cao tăng, người hiền hòa, mẫn cán, nên vua cai trị nước nhà yên ổn và thịnh vượng.
*- Thiết nghĩ: Việc Lý Công Uẩn soán ngôi nhà Tiền Lê, cũng như nhà Lê đã soán ngôi nhà Đinh, có lắm người đã bàn bạc việc này. Chúng ta hãy ngẫm nghĩ; nếu để ý sau cuộc soán đoạt, Lý Công Uẩn lên làm vua, Vạn Hạnh làm Quốc sư, Đào Cam Mộc được làm phò mã và phong hầu, thì có thể tin rằng sư Vạn Hạnh là người chủ mưu, muốn thay đổi từ triều Lê qua nhà Lý. Đào Cam Mộc là kẻ thi hành và sửa soạn cuộc đảo chính, còn Lý Công Uẩn có lẽ chỉ là kẻ thụ động trong vụ này.
Ngay khi Lê Long Đĩnh hạ sát Lê Long Việt (Trung Tông) lúc ấy các triều thần hoảng hốt bỏ chạy hết, Lý Công Uẩn là người duy nhất dám ở lại ôm thây vua khóc và xin an táng, thì đủ hiểu ông là người giàu thiện tâm. Nhưng khi Lê Ngọa triều mất, con còn nhỏ, quần thần cổ vũ lên ngôi, cơ hội thuận tiện ấy, tạo nên một duyên cớ thúc đẩy ông khó giữ một lòng trung quân, chứ việc sấm ký mà sư Vạn Hạnh đưa ra để chuẩn bị việc soán đoạt, chưa hẳn là điều đã quyết định để ông soán ngôi báu. Lê Đại Hành có 11 người con trai, Long Việt, Long Đĩnh mất rồi còn 9 người hoàng tử kia ở đâu, vì sao không tôn lên ngôi?!
Cảm phục: Lý Thái Tổ
Cửa thiền nhàn nhã, ngắm trời mây
Triều chính dấn thân, vận đổi thay
Rời khỏi Hoa Lư, không đế vượng
Khi vào Hà Nội, có rồng bay
Nam Chiêm, Bắc Tống im lìm thủ
Cung điện, chùa chiền kiên cố xây
Tô điểm núi sông, công đức lớn
Muôn dân yên ổn, sống vui vầy!
Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. “Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba ‘Tuesday’ mỗi tuần).
LÝ THÁI TỔ: LÝ CÔNG UẨN
(974 - 1028)
Lý Công Uẩn quê châu Cổ Pháp (thuộc Bắc Giang). Theo truyền thuyết, bà Phạm Thị đang mang bầu, vào chùa Ứng Tâm xin tá túc qua đêm, đêm ấy lại sinh một bé trai. Đứa bé được 3 tuổi, bà đem cho thiền sư Lý Khánh Vân làm con nuôi, đứa bé được đặt tên là Lý Công Uẩn.
Khi được 9 tuổi, Lý Công Uẩn theo Vạn Hạnh thiền sư học tập, Công Uẩn hàng năm theo thiền sư Vạn Hạnh vào hầu vua Lê ở Hoa Lư. Lý Công Uẩn được vua yêu mến, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Vua còn gả Công chúa Lê Thị Phất Ngân, sau này sinh ra Lý Phật Mã và Công Uẩn được phong làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư.
Khi Lê Trung Tông tức Thiếu Đế bị Lê Long Đĩnh sai người giết chết, Công Uẩn thương tiếc Thiếu Đế, đã can đảm ở lại ôm thây vua mà khóc, và xin an táng. Vua Lê Ngoạ Triều thấy vậy không bắt tội, mà còn cảm động, cho là người trung liệt, phong Công Uẩn chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh mất, con còn quá nhỏ, và nhiều người còn oán hận Lê Ngọa Triều, quan Chi hậu Đào Cam Mộc cùng quần thần, đồng lòng phù trợ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Lý Công Uẩn từ chối nhiều lần, nên thiền sư Vạn Hạnh (sư phụ Lý Công Uẩn) nói: “Ta nên nhập thế giúp đời, đời được yên ổn thì đạo mới vững vàng”. Lý Công Uẩn nghe theo, mặc áo long bào lên ngôi hoàng đế vào năm 1010, lấy đế hiệu Lý Thái Tổ.
Đầu năm 1010, vua cử Viên ngoại lang Lương Nhâm Văn và Lê Tài Văn qua Tống gây hòa hiếu. Đến tháng chạp năm 1010, sứ Tống đem sắc phong Lý Thái tổ là Giao Chỉ Quận vương.
Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên, tức năm 1010, Lý Thái Tổ thấy thành Hoa Lư chật hẹp và không có đế vượng, nên dời đô về La Thành (Đại La), đến nơi thấy có rồng vàng bay lên, nên đổi La Thành là thành Thăng Long (Hà Nội bây giờ).
Vua Lý Thái Tổ đổi Hoa Lư, thành phủ Trường An. Đổi Cổ Pháp, thành phủ Thiên Đức, chia nước làm 24 lộ, để tiện cho việc hành chánh. Lúc bấy giờ nhà Tống, trong nước đang gặp khó khăn, không dám gây hấn với nước ta. Chiêm Thành, Chân Lạp đều sang triều cống, nên lân bang thuận hòa.
Lý Thái tổ cho sửa sang và phát triển nông nghiệp, đắp đê Cơ Xá để tránh ngập lụt. Năm 1016, vua ra lệnh tha thuế cho dân ba năm. Vua lo việc văn học, cho lập văn miếu để phát huy Nho học, mở khoa thi Tam giáo (Khổng, Phật, Lão). Phật giáo thời nhà Lý được khuyến khích. Năm 1018 vua sai Nguyễn Đạo Thành qua Tàu thỉnh kinh Tam Tạng và cho xây chùa chiền. Vua Lý Thái Tổ là con nuôi và là đệ tử của các vị cao tăng, người hiền hòa, mẫn cán, nên vua cai trị nước nhà yên ổn và thịnh vượng.
*- Thiết nghĩ: Việc Lý Công Uẩn soán ngôi nhà Tiền Lê, cũng như nhà Lê đã soán ngôi nhà Đinh, có lắm người đã bàn bạc việc này. Chúng ta hãy ngẫm nghĩ; nếu để ý sau cuộc soán đoạt, Lý Công Uẩn lên làm vua, Vạn Hạnh làm Quốc sư, Đào Cam Mộc được làm phò mã và phong hầu, thì có thể tin rằng sư Vạn Hạnh là người chủ mưu, muốn thay đổi từ triều Lê qua nhà Lý. Đào Cam Mộc là kẻ thi hành và sửa soạn cuộc đảo chính, còn Lý Công Uẩn có lẽ chỉ là kẻ thụ động trong vụ này.
Ngay khi Lê Long Đĩnh hạ sát Lê Long Việt (Trung Tông) lúc ấy các triều thần hoảng hốt bỏ chạy hết, Lý Công Uẩn là người duy nhất dám ở lại ôm thây vua khóc và xin an táng, thì đủ hiểu ông là người giàu thiện tâm. Nhưng khi Lê Ngọa triều mất, con còn nhỏ, quần thần cổ vũ lên ngôi, cơ hội thuận tiện ấy, tạo nên một duyên cớ thúc đẩy ông khó giữ một lòng trung quân, chứ việc sấm ký mà sư Vạn Hạnh đưa ra để chuẩn bị việc soán đoạt, chưa hẳn là điều đã quyết định để ông soán ngôi báu. Lê Đại Hành có 11 người con trai, Long Việt, Long Đĩnh mất rồi còn 9 người hoàng tử kia ở đâu, vì sao không tôn lên ngôi?!
Cảm phục: Lý Thái Tổ
Cửa thiền nhàn nhã, ngắm trời mây
Triều chính dấn thân, vận đổi thay
Rời khỏi Hoa Lư, không đế vượng
Khi vào Hà Nội, có rồng bay
Nam Chiêm, Bắc Tống im lìm thủ
Cung điện, chùa chiền kiên cố xây
Tô điểm núi sông, công đức lớn
Muôn dân yên ổn, sống vui vầy!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn