Hôm nay,  

Đức Dalai Lama - Uy lực của tư tưởng

06/08/201100:00:00(Xem: 6313)

Đức Dalai Lama - Uy lực của tư tưởng

Đinh Yên Thảo

Đôi ngày sau khi Đức Daila Lama đến Hoa Kỳ hồi đầu tháng 7 vừa qua, giới lãnh đạo Quốc Hội Hoa Kỳ đã trịnh trọng đón tiếp ngài tại Điện Capitol. Những nhà lập pháp HK, với Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner và Chủ Tịch Phe Thiểu Số là bà Nancy Pelosi đều tỏ ra vui mừng trong cuộc gặp gỡ và không ngần ngại phát biểu những ủng hộ về các quyền tự do và dân chủ cho Tây Tạng. Và dù dè dặt hơn, TT Obama cũng không thể làm khác hơn các vị Tổng Thống tiền nhiệm, khi tiếp kiến riêng vị lãnh tụ tinh thần tối cao của Phật giáo Tây Tạng, nhà đấu tranh nhân quyền đã từng đạt giải Nobel Hoà Bình năm 1989. Như một anh hề với duy nhất một tấn tuồng, Trung Cộng ra tuyên bố rằng "đây là hành động can thiệp trắng trợn vào nội bộ Trung Quốc" (!"), trong khi rõ ràng việc đón tiếp ai, người nào, ra sao... mới thật sự là vấn đề nội tình của bất cứ quốc gia nào.

Hơn nửa thế kỷ, trải qua vài đời lãnh tụ, Trung Cộng dường như vẫn xem Đức Dalai Lama là một mối đe doạ đến họ để có những phản ứng như vậy. Không hẳn từ những ảnh hưởng chính trị, mà chính những tư tưởng cổ suý hoà bình, sự dân chủ và nhân quyền của một vị lãnh tụ tôn giáo uy tín đã gây nên sự bấn loạn này cho Trung Cộng, một thể chế đi ngược lại những giá trị như vậy.

Sinh năm 1935, Đức Dalai Lama vừa chào đón sinh nhật lần thứ 76 tại Hoa Kỳ, ngay trong chuyến thuyết giảng lần này. Sinh ra trong một gia đình nông dân tại một làng nhỏ vùng Đông Bắc Tây Tạng, năm 2 tuổi, ngài chính thức được thừa nhận là hậu duệ Dalai Lama đời thứ 14, theo các truyền thống và nghi thức chọn tìm các hậu duệ các vị Dalai Lama. Bắt đầu tu tập từ năm 5 tuổi, đến năm 15 tuổi ngài chính thức được coi là lãnh tụ tối cao của Giáo Hội Phật Giáo và chính phủ Tây Tạng, trong khi tiếp tục tu học tại các viện đại học. Năm 24 tuổi, ngài hoàn tất chương trình Tiến sĩ về Triết Học và Phật Học và nắm quyền quyết định hầu hết các vấn đề Tây Tạng.

Năm 1950, Trung Cộng đưa 80 ngàn vệ binh đỏ sang chiếm đóng Tây Tạng và chỉ một năm sau, ngang ngược đưa ra một hiệp ước bắt buộc chính phủ Tây Tạng thừa nhận rằng, Tây Tạng là một lãnh thổ tự trị trực thuộc "đại quốc" Trung Hoa cộng sản. Với tư cách một người đứng đầu Tây Tạng, Đức Dalai Lama lúc bấy giờ còn là một tu sĩ trẻ đã nhiều lần sang hội kiến và đàm luận cùng các lãnh tụ cao cấp của "đại quốc" lúc bấy giờ như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình... Nhưng tình hình dường như không thay đổi, kể cả việc thông qua sự ảnh hưởng của ngài với Thủ tướng Ấn độ lúc bấy giờ là Jawaharlal Nehru để bàn luận riêng với Thủ Tướng Chu Ân Lai về vấn đề Tây Tạng vào năm 1958.

Năm 1959, tình hình bắt đầu tồi tệ và xung đột bùng nổ khi người Tây Tạng đứng dậy, biểu tình đòi Trung Cộng rút khỏi Tây Tạng. Các hồng vệ binh Trung cộng được lịnh đàn áp dân Tây Tạng cũng như tìm cách bắt giữ Đức Dalai Lama. Cùng một nhóm tùy tùng nhỏ, Đức Dalai Lama đã được các cảm tử quân Tây Tạng mở đường máu, băng dãy Hy Mã Lạp sơn để vượt thoát sang Ấn độ. Thủ tướng Nehru đã chấp nhận cho Đức Dalai Lama cùng nội các của ông lưu vong tại Dharamsala, Ấn độ. Khá nhiều người dân Tây Tạng sau đó đã đào tẩu theo chân Đức Dalai Lama và một chính phủ Tây Tạng lưu vong ra đời từ năm 1959 cho đến nay. Tổ chức có khoảng 120 ngàn người luôn hướng về Tây Tạng và đấu tranh cho một Tây Tạng tự trị dưới sự lãnh đạo tinh thần và chính trị của Đức Dalai Lama trong nửa thế kỷ qua. Đầu tháng 3 năm nay, Ngài đề nghị thay đổi hiến pháp của chính phủ Tây Tạng lưu vong để vị Dalai Lama không còn kiêm nhiệm cả chức vụ Quốc Trưởng, thay vào đó là một Quốc Trưởng được chọn thông qua bầu cử, trẻ trung và có khả năng đem lại những thay đổi thật sự cho Tây Tạng. Với đề nghị và thay đổi này, ngài đã từ nhiệm vai trò lãnh tụ chính trị dù vẫn là lãnh tụ tôn giáo tối cao của Tây Tạng.

Cả một lịch sử bi hùng của vị lãnh tụ Phật Giáo và những người Phật Giáo Tây Tạng can đảm. Với chủ trương đấu tranh bất bạo động qua những triết lý Phật giáo để giành lại quyền tự trị, đem lại dân chủ, nhân quyền cho đất nước và người dân Tây Tạng, Đức Dalai Lama đã tạo được uy tín to lớn trên toàn thế giới. Ngài chu du không mệt mỏi đến nhiều quốc gia, gặp nhiều vị nguyên thủ quốc gia trên thế giới để vận động sự ủng hộ cho Tây Tạng trước sự giận dữ của Trung cộng, khi coi ngài là một người ly khai.

Một vài tài tử tên tuổi của Hollywood như Richard Gere, Steven Seagal là những Phật tử thuần thành và đồ đệ hết mực ủng hộ Đức Dalai Lama, vẫn thường phản đối các chính sách đàn áp của Trung cộng với Tây Tạng và Đức Dalai Lama một cách mạnh mẽ. Hồi tuần qua, Richard Gere nhân cuộc trưng bày ảnh nghệ thuật tại Seoul, Nam Hàn, nơi ông triển lãm các tác phẩm nghệ thuật trong một lần duy nhất đến được Tây Tạng hồi năm 1993, lại một lần nữa lại lên tiếng chỉ trích Trung Cộng. Richard Gere bị Trung cộng ra lịnh cấm nhập cảnh vĩnh viễn vào lãnh thổ Trung cộng, bao gồm cả Tây Tạng. Nhưng những việc như vậy chẳng hề mang giá trị hay chút ảnh hưởng nào với cá nhân Richard Gere hay hàng triệu người khắp nơi trên thế giới luôn bày tỏ sự kính mến và ủng hộ Đức Dalai Lama.

Chuyến diễn thuyết tại Hoa Kỳ lần này của Ngài đã thu hút hàng trăm ngàn người từ khắp nơi trong nước Mỹ và trên thế giới về tham dự. Không chỉ với sự ngưỡng mộ riêng mà có lẽ cả những người tham dự, bộc bạch trên báo chí rằng, họ tìm được sự bình yên và sự yêu thương tận sâu trong tâm thức của họ từ những triết lý Đức Dalai Lama thuyết giảng.

Những trích giảng về các bài nói chuyện của Đức Dalai Lama mà chúng ta đọc được, không hề mang sự truyền bá tư tưởng tôn giáo, mà về ý nghĩa của yêu thương và hy vọng, về những giá trị nhân bản chung cho con người. Và vì đó đã được đón nhận từ nhiều tầng giới xã hội. Những tư tưởng này càng được đón nhận và cần thiết trong một thế giới khủng bố, bạo lực đang xảy ra mỗi giây phút khắp mọi nơi. Và hơn thế nữa, những tư tưởng này tạo ra một uy lực nội tại có khả năng làm khiếp đảm những thể chế độc tài còn sót lại trên thế giới.

ĐYT

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.