Tạp ghi: Chọn Lầm Nghề - Huy Phương
Cha mẹ sinh con, nuôi con lớn lên, ai cũng muốn chọn cho con một cái nghề có thể sống no đủ, nhưng phải lương thiện để khỏi ai chửi bới đến cha mẹ họ hàng. Ngày thôi nôi, hay là sinh nhật đầu tiên của đứa trẻ, cha mẹ có tục bày ra trước mặt trẻ một số vật dụng nhỏ, như cây kéo, tờ giấy, cây viết, cây búa... để xem trẻ thích món gì nhất thì cầm lấy coi như đó là xu hướng chọn nghề của nó đã có từ tuổi này. Đây chỉ là chuyện vui chơi, xem như chuyện bói nghề, chứ không phải là chuyện đoán trước được tương lai. Vì nghề nghiệp, ngay cả thời xưa ở xóm làng Việt Nam cũng đã có hằng trăm, mà vật dụng quanh quẩn trong nhà đưa ra cho đứa trẻ thì có giới hạn. Vậy mà cũng có chuyện đúng, nếu thời đó mà đứa nào vớ phải cây búa hay cây liềm, ắt lớn lên đi theo Cộng Sản! Cũng có người căn cứ vào tử vi để đoán nghề nghiệp cho người, nhưng cũng có lúc sai, khiến một ông thầy tử vi nổi tiếng ngày xưa đã phán rằng: “Không lẽ tôi đoán nhầm, số nàng là số ca kỷ chứ đâu phải là mệnh phụ phu nhân!”
Thời phong kiến, người ta thu gọn nghề nghiệp vào trong bốn ngành: Sĩ Nông Công Thương, mặc dầu Sĩ vẫn được xem là trọng, nhưng nông nghiệp vẫn là nghề chính trong dân gian: “nhất Sĩ nhì Nông, hết gạo chạy rông, nhất Nông nhì Sĩ” và dù nghề Thương được xếp chót trong bậc thang nghề nghiệp, người vẫn phải công nhận là “phi thương bất phú”.
Ngày trước người ta không cho chọn nghề là quan trọng, phần lớn nghề nghiệp là cha truyền con nối, hay theo nghiệp tổ như nghề nông, nghề rừng, nghề biển, nghề đúc đồng, mà kinh nghiệm được trao truyền và giảng dạy cho các thế hệ tiếp nối từ lúc hãy còn nhỏ đi theo cha ông. Có những nghề cần “gia truyền” như nghề thuốc, nghề chữa bệnh, nghề bói toán, thậm chí đối cả với những nghề cần chút bí quyết về nghệ thuật hay khéo tay như nghề đan thêu, làm bún, nghề chằm nón...
Bí quyết của nghề thường được truyền dạy giới hạn trong gia tộc, đến bà con, không dạy cho người ngoài hay con gái, sợ khi lập gia đình truyền nghề cho chồng là người ngoại tộc như người Trung Hoa vẫn thường chủ trương. Do đặc điểm đó, chúng ta có những làng cùng làm một nghề và tên làng nổi tiếng theo với nghề như làng mây tre Xuân Phúc, làng chiếu Nga Sơn, làng đúc đồng Đại Bái, làng sứ Bát Tràng, làng tranh Đông Hồ, làng nón Phú Cam. Ở Quảng Nam, có làng Kim Bồng nổi tiếng với nghề mộc chạm trổ truyền thống, nghề nề đắp vẽ, chạm trổ linh vật, thợ làng từng đi khắp mọi miền đất nước, đã góp phần xây dựng, tô vẽ những lăng tẩm, đền đài tại kinh đô Huế. Tay nghề giỏi không lo đói, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, cái gì cũng biết chút chút kiểu “handy” thì người xưa chê là “nhiều nghề như cá trê đục vô ống!” Làm nghề nào thì nhờ nghề đó, gần như là lẽ đương nhiên nhưng các cụ sao lại mỉa mai: “thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ.”
Ở Mỹ nghề nghiệp được phân biệt rõ, thầy và thợ. Thầy thì ngồi trong văn phòng, áo quần bảnh bao là cổ trắng (white collar worker), thợ thuyền làm việc tay chân, lấm lem là cổ xanh (blue collar worker). Một đất nước muốn phát triển đều cần cả xanh lẫn trắng, tuy vậy nhiều quốc gia hiện nay dư trắng thiếu xanh phải mở cửa cho di dân vào làm thợ.
Ngày nay tiếp cận với nền văn minh, ít có người trẻ chọn nghề theo truyền thống gia đình mà tự chọn nghề cho bản thân mình, hoặc là theo sở thích, hoặc là chọn nghề nào kiếm ra tiền nhiều nhất để đền bù lại thời gian vất vả học hành và món nợ đã vay mượn. Nhiều bạn trẻ chọn nghề theo sở thích nhưng lại thiếu kinh nghiệm và ít có khả năng trong nghề mình yêu thích nên bị thất bại. Chọn nghề theo nhu cầu của thị trường, đôi khi tốt nghiệp thì thị trường đã thay đổi.