Hôm nay,  

Đại Sư Hungkar Giảng Pháp: Trước Khủng Hoảng Toàn Cầu

07/11/200900:00:00(Xem: 5861)

Đại Sư Hungkar Giảng Pháp: Trước Khủng Hoảng Toàn Cầu

Đại sư Hungkar Rinpoche.

Đại sư Tây Tạng Hungkar Dorje Rinpoche sẽ có buổi thuyết pháp tại Quận Cam, trong đó theo ban tổ chức sẽ “là đề tài ‘Áp dụng Phật Giáo vào việc chuẩn bị tâm thức’, và mong là sẽ giúp chúng ta dễ dàng hòa nhập với tình trạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay.”
Đại sư Hungkar Dorje Rinpoche là người được truyền thống Cổ Mật Tây Tạng (Nyingma) tin tưởng là Hóa Thân Trí Tuệ của Đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.
Buổi thuyết pháp sẽ là Thứ Tư ngày 11-11-2009, vào giờ: 6:30Pm-9:00Pm, tại địa điểm: 13241 Galway St , Garden Grove CA 92844. Ban tổ chức kính mời, vào cửa tự do, miễn phí.
Các thắc mắc, xin liên lạc: Kathy Phạm (714) 705-5690; Bích Thủy Đỗ (714) 654-2239; Kha Nguyễn (714) 837-3860. Email: kathpham@yahoo.com.
Sau đây là bản tiểu sử vắn tắt của Đại Sư Hungkar Dorje Rinpoche, viết bởi Lạt Ma Sherab Dorje, do cư sĩ Thanh Liên dịch ra Việt ngữ, đăng trên mạng Thư Viện Hoa Sen (http://www.thuvienhoasen.org/).
 Hungkar Dorje Rinpoche là một Đạo sư được xác nhận của dòng Nyingma và là Tu viện trưởng Tu viện Thubten Chokor Ling tại Golok, Tây Tạng. Rinpoche sinh năm 1970 trong một gia đình du cư gồm những yogin chứng ngộ vĩ đại ở Golok. Cả hai bên nội ngoại của gia đình ngài đều là những vị trì giữ dòng truyền thừa, những đại thành tựu giả và Đạo sư Phật Giáo vĩ đại được truy nguyên nhiều thế hệ từ thời đại của Guru Rinpoche ở Tây Tạng và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ. 
Trong đời này Hungkar Rinpoche sớm được những Đạo sư Phật Giáo như H.H. Orgyen Kusum Lingpa, H.H. Dodrupchen Rinpoche, H.H. Penor Rinpoche, và sau này, H.H. Dalai Lama xác nhận là Hóa Thân của Do Khyentse Yeshe Dorje và hiện thân về tâm của Jigme Lingpa. Những dòng Hóa Thân Khyentse (chẳng hạn như Beru Khyentse, Dzongsar Khyentse, Dilgo Khyentse, Khyentse Chokyi Lodro) từng là những bậc tiên phong trong việc phát triển và bảo tồn truyền thống Nyingma ở Tây Tạng  và những nơi khác trong vài trăm năm.
Trong thời thơ ấu của ngài, khi cuộc đàn áp của Cộng Sản Trung Quốc ở vào giai đọan khốc liệt, không một ai được phép có một xâu chuỗi, nhắc tới danh hiệu của Đạt Lai Lạt Ma hay tổ chức những cuộc tụ họp Phật Giáo. Nhiều tu sĩ và Lạt ma bị tống giam, hành hạ và bị giết. Trong số những Đạo sư sống sót có thân phụ ngài, H.H. Orgyen Kusum Lingpa, người nổi danh là “Yogi Vĩ đại xứ Golok,” vị Terton Sống và Đạo sư Nyingma chứng ngộ, vị trì giữ dòng truyền thừa của Dzogchen Pema Nyingthig và Hóa Thân của nhiều đại thành tựu giả như Drilwupa xứ Ấn Độ, Drukpa Kunley và Nyima Drakpa xứ Tây Tạng và của Lalung Palgi, một trong 25 đệ tử tâm yếu của Guru Rinpoche… Orgyen Kusum Lingpa bị chính quyền Cộng Sản Trung Quốc tống giam trong nhiều năm để cản ngăn ngài truyền bá Giáo Pháp sau khi họ nghe những tiên tri nói rằng ngài là vị Terton Sống sẽ khám phá những kho tàng Giáo Pháp (terma) và đưa những giáo lý linh thánh trở lại cuộc đời ngay trong đời này.
Trong khi thân phụ ngài bị tù đày, Rinpoche bị nhà cầm quyền Cộng Sản địa phương thường xuyên canh chừng để ngăn cản không cho ngài chú tâm vào việc nghiên cứu và thực hành Phật Giáo. Thật may mắn là những Đạo sư Phật Giáo cao cấp khác đã che chở ngài bằng cách giữ bí mật thân thế thiêng liêng của ngài, nhờ đó năm lên chín tuổi, ngài có thể tới Tu viện Palyul ở Golok và hoàn tất việc tu tập căn bản Phật Giáo, nó bao gồm trên mười năm nghiên cứu và thực hành Đại thừa và Kim Cương thừa như Ngondro, Tsalung và Dzogchen. Trong thời gian này, Tulku Hungkar có may mắn được học tập với nhiều vị Thầy gốc tôn kính ở Tây Tạng, kể cả Đạo sư vĩ đại Akong Khenpo.
Trong mùa đông năm 1989, đáp lại tiếng gọi của hứa nguyện trong đời trước của ngài là một Đạo sư Phật Giáo không bộ phái, người truyền bá những giáo lý của mọi dòng truyền thừa, Hungkar Dorje đã trốn khỏi Golok và bí mật du hành xuyên qua Tây Tạng trong mùa đông, gặp nhiều gian khổ và suýt chết, trước khi cuối cùng tới Tu viện Drepung của dòng Gelugpa bên ngoài Lhasa. Ở đây, Rinpoche đã nghiên cứu trong hơn hai năm trong khi những tu sĩ bảo vệ và che dấu chỗ ở của ngài thoát khỏi sự theo dõi của Cộng Sản Trung Quốc. 
Năm 1991, với sự giúp đỡ của những Đạo sư Phật Giáo thâm niên, Rinpoche rời Lhasa trốn sang Ấn Độ. Một lần nữa, ngài đối mặt với nhiều gian khổ và thử thách khốc liệt khi vượt qua rặng Himalaya, nhưng những trở ngại này đã được khắc phục nhờ sự gia hộ của các Hộ Pháp. Nhiều câu chuyện kỳ diệu có thể được thuật lại từ cuộc hành trình của ngài là bằng chứng của năng lực của Tam Bảo và chư vị Hộ Pháp.
Rinpoche đã cư trú và thực hành trong ba năm tại thánh địa Varanasi (Ba La Nại), “Xứ của Ánh sáng Linh Thánh,” gần Sarnath, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban bài thuyết pháp đầu tiên sau khi Giác ngộ. Trong thời gian này, Rinpoche tiếp xúc mật thiết với H.H. Dalai Lama, Người sắp xếp cho ngài tới Dharamsala để tiếp tục việc tu hành cao cấp trong dòng Gelugpa. Năm năm sau, ngài tốt nghiệp thủ khoavới cấp bậc Geshe (Tiến sĩ Phật Học). Mọi phí tổn trong việc sinh hoạt và nghiên cứu của ngài được văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma bảo trợ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đức Đạt Lai Lạt Ma.


Năm 1994, Rinpoche được chính thức đăng quang là Hóa Thân của Do Khyentse Yeshe Dorje và Jigme Lingpa. Lễ đăng quang được cử hành ở Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) dưới sự bảo trợ của dòng Nyingma, H.H. Dalai Lama và những vị lãnh đạo cao cấp nhất của những dòng truyền thừa Phật Giáo khác. Bài kệ “Lời Cầu nguyện Trường thọ cho Hungkar Dorje Rinpoche” được H.H. Dalai Lama biên soạn, biểu thị rõ ràng mối liên hệ của Hungkar Rinpoche với những đời trước, và tiên đoán những thành tựu trong tương lai của ngài.
Sau khi tin tức của lễ đăng quang bay tới Trung Quốc, chính quyền địa phương Trung Quốc tại Golok đã gởi một bức thư nói rằng họ chấp nhận cho ngài trở về tu viện của ngài và hứa không kết tội về những lần trốn tránh trước đây. Theo khẩn cầu của những cư dân Golok và theo hứa nguyện về Pháp của ngài trong những đời trước, Rinpoche trở về Golok, ở đó một lần nữa ngài được đăng quang, và từ lúc đó ngài đã cư trú như  Tu viện trưởng của Tu viện Thubten Chokor Ling. Tu viện có hàng ngàn tu sĩ đang nghiên cứu và thực hành dưới sự hướng dẫn của Rinpoche, nhiều vị trong số đó là những hành giả thành tựu cao cấp.
Nền tảng việc tu hành của Rinpoche trong những truyền thống Phật Giáo Tây Tạng khác nhau đã khiến ngài nổi danh là một Đạo sư Phật Giáo không bộ phái độc nhất vô nhị. Mọi người từ khắp nơi đổ tới để nhận những giáo lý từ ngài. Golok là một môi trường khắc nghiệt ở độ cao trên mười ngàn phút (khoảng ba ngàn mét) và dân chúng ở đó là những người du cư nghèo khổ. Nó bị núi non và một con sông rộng ngăn cách với những vùng đất thấp phát triển hơn. Thủa xưa, yếu tố này đã ngăn chặn những cuộc xâm lược của ngoại quốc, nhưng nó cũng cắt đứt mối quan hệ phát triển thương mại và kinh tế giữa Golok với thế giới bên ngoài. Rinpoche đã làm việc không mỏi mệt để phát triển và vay mượn những nguồn tài chính nhằm xây dựng một chiếc cầu kết nối Golok với những vùng thấp phát triển hơn. Cuối cùng, vào năm 1999, cây cầu đã được xây dựng. Suốt từ đó tới nay, điều kiện sinh sống của cư dân Golok đã được cải thiện rất nhiều.
Ước nguyện của Rinpoche nhằm mang lại những cơ hội tốt hơn cho các hành giả Pháp và những cư dân Golok cũng mang lại kết quả là đưa được nguồn điện vào Golok năm 2002. Rinpoche thường mỉm cười khi ngài nói về thời mà các thế hệ tu sĩ trước đây phải học tập trong bóng tối dưới ánh nến, và sau này thường kết thúc với những vấn đề về mắt. Giờ đây, với nguồn điện, các tu sĩ, hành giả và những học viên có thể có nhiều thì giờ hơn để nghiên cứu và thực hành mà không bị tổn hại thị lực của họ. Với sự hài hước đầy thiện tâm, ngài nói: “Bây giờ thì chẳng có lý do gì để lười biếng nữa!”
Rinpoche cũng đã không ngừng làm việc để hoàn thành và tiếp tục nhiều chương trình Pháp quan trọng như:
• Hoàn thành Mạn đà la Guru Rinpoche và Chùa Samye ở Golok.
• Trùng tu sự hư hại của Đại Tháp cho Hòa bình Thế giới tại Golok. 
• Xây dựng một Tháp Milarepa tại Golok.
• Thành lập một Học viện Giáo Pháp nơi các học viên sẽ tham dự chương trình tu hành Phật Giáo cao cấp trong chín năm.
• Biên soạn và xuất bản nhiều sách văn học, nghệ thuật và giáo lý Phật Giáo.
• Tổ chức, biên tập và dịch thuật những bản văn Giáo Pháp và những giáo lý linh thánh của Lamasang, Rinpoche và những Đạo sư dòng truyền thừa cao quý khác.
• Tổ chức và hướng dẫn lễ puja Shambala hàng năm ở Tây Tạng từ năm 2004. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thỉnh cầu và trực tiếp bảo trợ cho việc cầu nguyện và tổ chức lễ puja này.
• Thành lập Tổ chức Gesar vào năm 2004, là tổ chức, trong số những họat động nhân đạo khác, đang thành lập một hệ thống trường học địa phương trong những miền Tây Tạng truyền thống của Golok để giúp bảo tồn ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Tổ chức cũng sẽ bảo trợ những chương trình giúp đỡ những người già cả và tàn tật, là những người hiện không nhận được sự trợ giúp của chính phủ ở Tây Tạng.
• Sưu tầm, tổ chức, dịch thuật và xuất bản những giáo lý Phật Giáo toàn thiện vì sự lợi lạc của những hành giả Phật Giáo trong thời đại này và những thế hệ tương lai. Đây là một dự án khổng lồ hiện đang được thực hiện với sự tham dự của hàng trăm tu sĩ và hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp xã hội.
Tất cả những dự án quan trọng, đầy ý nghĩa này được thực hiện với sự hồi hướng công đức cho sự lợi lạc của tất cả chúng sinh. Khi người ta nói về những thành tựu và những đời trước của ngài, Hungkar Rinpoche luôn luôn hết sức khiêm tốn và với một nụ cười dịu dàng trên khuôn mặt, ngài thường trả lời rằng: “Tôi chỉ là một tu sĩ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với rất nhiều điều phải học tập và hoàn thiện.” Mặc dù thế, nhiều người cảm thấy được ban phước chỉ nhờ gặp được Rinpoche, và kinh nghiệm sự giải thoát chân thực khỏi nỗi đau khổ và muộn phiền. Dưới sự dẫn dắt đầy nhiệt tâm của Rinpoche, nhiều người được rót đầy khả năng giác ngộ và hạnh phúc...

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.