[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc ledinhho@hotmail.com]
Hỏi (Trần T.H): Cách đây hơn 3 tháng con tôi đã bị bắt và bị cáo buộc về tội buôn bán ma túy. Thoạt tiên cháu đã không chịu nhận tội, nhưng sau mấy tuần lễ cháu đã đồng ý nhận tội. Sau đó tòa đã tuyên án tù 3 năm 6 tháng và buộc cháu phải thụ hình tối thiểu là 2 năm.
Cháu cho biết 2 người bạn cùng bị bắt và cùng bị cáo buộc cùng tội với cháu, nhưng tòa chỉ tuyên án mỗi người chỉ bị 18 tháng tù, và buộc phải thụ hình tối thiểu là 12 tháng.
Cháu rất ngạc nhiên về bản án mà tòa đã tuyên xử đối với 2 người bạn của cháu. Cháu cho biết rằng 2 người bạn đã cùng cháu phân công để đi giao và bán hàng. Cháu mang số lượng ngang bằng với 2 người bạn của cháu, Hơn nữa, bạn của cháu là người lái xe.
Khi bị cảnh sát chận và lục xét, thì trong túi xách của cháu cùng 2 người bạn đều mang số lượng ma túy gần ngang bằng nhau.
Khi bị đưa về đồn cảnh sát, cháu cùng 2 người bạn đều bị cáo buộc tội buôn bán ma túy. Hai người bạn của cháu sau đó đã nhận tội. Riêng cháu thì mãi tới mấy tuần sau mới chịu nhận tội.
Cháu năm nay 23 tuổi, chưa hề gặp rắc rối với pháp luật. Với bản án chênh lệnh vừa nêu, cháu định kháng án.
Xin LS cho biết là liệu việc kháng án của cháu có thành công hay không" Nếu cháu kháng án thì phí tổn sẽ như thế nào" Trước đây cháu đã được chính phủ trả tiền luật sư"
*
Trả lời: Điều 44(1) “DDạo Luật [về Thủ Tục Tuyên Án] Hình Sự 1999” (Crimes [sentencing Procedure] Act) quy định rằng: “Khi tuyên án phạm nhân phải ở tù về một tội phạm, trước tiên tòa án được yêu cầu phải đưa ra thời gian không được phóng thích có điều kiện đối với bản án [đó là, thời gian tối thiểu mà phạm nhân bị giam giữ liên hệ đến sự vi phạm đó]” (When sentencing an offender to imprisonment for an offence, the court is first required to set a non-parole period for the sentence [that is, the minimum period for which the offender must be kept in detention in relation to the offence]).
Điều 44(2) “Thời gian còn lại của bản án không được vượt quá 1/3 của thời gian không được phóng thích có điều kiện đối với bản án, ngoại trừ tòa án quyết định rằng có tình huống đặc biệt để thời gian đó nhiều hơn [trong trường hợp đó tòa án phải ghi lại những lý do đối với” quyết định đó]” (The balance of the term of the sentence must not exceed one-third of the non-parole period for the sentence, unless the court decides that there are special circumstances for it being more [in which case the court must make a record of its reasons for that decision]).
Điều 44(3) “Việc tòa không chịu làm đúng theo sự quy định của khoản 2 điều đó không làm cho bản án bất hợp lệ” (The failure of the court to comply with subsection (2) does not invalid the sentence).
Trong vụ Jaskierski v Regina [2007] NSWCCA 168, vào ngày 4.3 và 1.5.2004 bị cáo cùng 2 đồng phạm, Falemaka và langbien. Nói một cách ngắn gọn là bị cáo cùng Falemaka đã cung cấp một số lượng bạch phiến cho Langbien. Sau đó Langbien bán lại cho những người nghiện ma túy đến nhà cô ta mua để dùng.
Cô Langbien được yêu cầu phải tính toán tiền bạc cho bị cáo và Falemaka về số lượng bạch phiến mà cô ta đã bán cho các tay nghiện.