Tạp ghi: Bữa Cơm Gia Đình - Huy Phương
Tôi không phải sinh ra trong một gia đình quyền quí gì, cha tôi chỉ là một nhà giáo ở tỉnh lẻ, nhưng nếp sống gia đình cũng theo thói thủ cựu kéo dài cho tới khi tôi khôn lớn. Hồi ấy tôi mới lên sáu đang học lớp Đồng Ấu trường tiểu học thị xã và cho tới giờ này tôi không bao giờ quên được những bữa cơm gia đình, nó là lúc tập họp mọi người lại, đó cũng là lúc vui và cả lúc buồn phiền vì những sinh hoạt vui buồn của gia đình luôn luôn đi vào bữa cơm, không kiêng dè gì tới tuổi ấu thơ, non trẻ của tôi.
Gia đình có ba bữa ăn luôn luôn đông đủ mọi người trong gia đình. Ban sáng, có lẽ từ lúc trời rạng đông mẹ tôi đã dậy nấu một nồi cháo đậu xanh hay cháo gạo đỏ, múc ra từng chén (bát) nhỏ và bày lên tấm “phản gõ” (còn gọi là tấm phản ngựa làm bằng thứ gỗ tốt), nơi mỗi bữa ăn gia đình tôi vẫn quây quần ở đó.
Lúc tôi thức giấc, làm vệ sinh xong chuẩn bị đến trường cũng là lúc cha tôi đã ngồi vào chỗ ăn sáng. Chiếc mâm đồng có chạm trổ rồng phụng, đã cũ, hơi vênh mặt, đã bày quanh những bát cháo xếp tròn, ở giữa mâm là một chiếc dĩa lớn đựng những tảng đường đen đã được mẹ tôi chặt đều ra từ một bánh đường “đọi” (bánh đường có hình thể của một chiếc bát), hoặc có ngày sang thì chiếc dĩa đựng một ít đường cát vàng... Chung quanh mâm cháo đã có các anh chị tôi, trong khi mẹ tôi có lẽ còn loay hoay gì đó trong nhà bếp.
Trong bữa sáng, tương đối ai cũng ăn vội vã và ít chuyện trò vì mỗi người đều phải có công việc riêng phải rời nhà. Trong khi lúc ăn, chúng tôi đều phải từ tốn, không khua đũa bát hay nói chuyện ồn ào. Cháo hay cơm thì người ăn phải vét cho sạch chén, không để lại một hạt cơm dính trong chén hay một vệt cháo còn lại cho khỏi phí của trời và mang tội. Ăn xong, chúng tôi không phải bưng chén không xuống bếp, nhưng phải để cái chén dùng xong ngay ngắn trước chỗ mình ngồi và nhất là phải gác ngang đôi đũa lên miệng chén để cho mọi người biết là mình đã ăn xong, xin phép và đứng dậy.
Trái lại, bữa cơm trưa và bữa cơm tối là hai bữa cơm gia đình sau khi mọi người đã trở về nhà. Thời Pháp thuộc, chợ chỉ đông một buổi, công chức, học sinh hay thợ thuyền, cũng đều chia công việc hằng ngày ra làm hai buổi, trưa trở về nhà ăn uống, ngủ trưa, mãi đến ba giờ chiều mới làm việc lại. Những bữa cơm này, chúng tôi phải đợi khi cha tôi về, đợi cho ông thay quần áo, rửa tay chân, mặt mày, ngồi vào mâm cơm, khi ông cầm đũa lên, anh em chúng tôi mới bắt đầu ăn. Vì vậy có lúc 11 giờ trưa tôi đã về tới nhà, bụng đói nhưng không bao giờ được mẹ tôi cho ăn trước, có ưu ái chăng là một cục kẹo, trái bắp hay một bó đậu nành luộc mà mẹ tôi đã mua từ buổi chợ về để làm quà cho tôi. Có khi đói và buồn ngủ tôi đã ngáy khò trên chiếc phản ngựa cho đến khi mẹ tôi gọi dậy để cho bà dọn bữa cơm trưa.
Buổi tối, thường là gia đình tôi ăn cơm khi trong nhà đã lên đèn. Nếu cha tôi có tạt vào nhà một ông bạn nào đó có chút việc thì anh em chúng tôi cũng phải ráng lòng chờ, đó cũng là lòng kính trọng, là một nguyên tắc bất thành văn, chưa lúc nào gia đình tôi được ăn cơm trước, trừ trường hợp có công chuyện, cha tôi phải về nhà quá trễ và có dặn trước với mẹ tôi.
Bữa cơm gia đình luôn luôn là một buổi hội họp, trò chuyện, trao đổi ý kiến. Có lúc cha tôi nói về những ông bạn cùng sở, anh tôi nói về những người bạn và tôi với những chuyện ngô nghê của tuổi nhỏ, nhưng ít khi ai lắng tai nghe kỹ và lâu một chút về những điều tôi nói. Bữa ăn cũng là lúc loan báo các thông tin qua các bức thư cha tôi nhận được ở sở, từ quê nhà, từ thân thuộc nên cũng có khi bữa ăn trĩu nặng như bầu trời trước cơn mưa giông.