[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc ledinhho@hotmail.com]
Hỏi (Cô Trần T.T.H.): Tôi được chồng tôi về Việt Nam làm lễ kết hôn vào tháng 4 năm 2007 và được bảo lãnh sang Úc vào đầu tháng 3 năm 2008.
Khi đến Úc tôi mới biết được rằng anh ta đã có gia đình tại Úc. Mặc dầu anh ta đã ly dị, tuy nhiên anh ta cho tôi biết là anh ta vẫn phải tiếp tục chu cấp cho 2 đứa con của người vợ trước cho đến lúc các cháu được 18 tuổi như sự quy định của luật lệ tại Úc.
Việc nuôi dưỡng con cái theo tôi nghĩ đó là bổn phận làm cha của anh ta, vì thế điều đó đối với tôi không có gì để phải thắc mắc cả. Tuy nhiên, việc anh ta dối gạt tôi rằng anh ta chưa từng lập gia đình là điều mà tôi không thể nào chấp nhận được.
Xin LS cho biết là tôi có thể nộp đơn để hủy bỏ hôn thú với lý do là anh ta đã dối gạt tôi, điều đó có được hay không"
*
Trả lời: Điều 51(2) của “Đạo Luật Gia Đình 1975” (the Family Law Act) quy định rằng: “Lời thỉnh cầu theo Đạo Luật này đối với án lệnh vô hiệu hóa hôn nhân sẽ được căn cứ vào lý do rằng hôn phối không có hiệu lực pháp lý” (An application under this Act for a decree of nullity of marriage shall be based on the ground that the marriage is void).
Điều 51(3) quy định rằng: “Các lý do theo đó hôn nhân có thể bị xem là không có hiệu lực pháp lý được quy định theo điều 23B của Đạo Luật Hôn Nhân 1961” (The grounds on which a marriage may be found to be void are set out in section 23B of the Marriage Act 1961).
Điều 23B(1) “Đạo Luật Hôn Nhân 1961” (the Marriage Act 1961) quy định rằng: “Sự kết hôn theo đó sự phân lọai này áp dụng [xảy ra sau khi bắt đầu ‘áp dụng’ điều 13 của Đạo Luật Tu Chính về sự Kết Hôn] là không có hiệu lực pháp lý khi mà”: (A marriage to which this Division applies [that takes place after the commen- cement of section 13 of the Marriage Amendment Act 1985] is void where):
(a) “vào lúc kết hôn, một trong hai bên đương sự đã kết hôn một cách hợp pháp với một người khác” (either of the parties is, at the time of the marriage, lawfully married to some other person).
(b) “các bên đương sự thuộc về lọai quan hệ bị ngăn cấm” (the parties are within a prohibited relationship).
(c) “theo lý do quy định trong điều 48 sự kết hôn không phải là một sự kết hôn có hiệu lực pháp lý” (by reason of section 48 the marriage is not a valid marriage).
(d) “sự đồng ý của một trong hai bên đương sự không phải là một sự đồng ý thực sự vì: (i) sự đồng ý đó đã đạt được do sự cưỡng ép hoặc lừa gạt; (ii) đương sự bị lầm lẫn về việc nhận dạng đương sự kia hoặc đối với tính cách tự nhiên của lễ cưới được cử hành; hoặc (iii) đương sự không có năng lực về phương diện tâm thần để thông hiểu được tính cách tự nhiên và hiệu quả của lễ cưới” (the consent of either of the parties is not a real consent because: (i) it was obtained by duress or fraud; (ii) that party is mistaken as to the identity of the other party or as to the nature of the ceremony performed; or (iii) that party is mentally incapable of under- standing the nature and effect of the marriage ceremony).
(e) “một trong hai bên đương sự không ở trong tuổi có thể được kết hôn” (either of the parties is not of marriageable age).
Trong vụ Aird & Hamilton-Reid [2007] FamCA 4, “bị đơn” (the respondent) đã khai tuổi giả và khai là chưa bao giờ kết hôn cho “nguyên đơn” (the Applicant) rồi làm đám cưới, đồng thời không chịu tiết lộ cho “nguyên đơn” biết là ông ta đã có 2 con với người vợ trước. Vì thế “nguyên đơn” đã nộp đơn để xin tòa tuyên bố là hôn nhân vô hiệu lực.
Trong “giấy hôn thú” (the marriage certificate) cho thấy rằng hai bên đương sự kết hôn vào ngày 20.3.2004. “Nguyên đơn” là người vợ kết hôn với “bị đơn” (the respondent) là Ông Hamilton-Reid.
Giấy hôn thú cũng cho thấy rằng bị đơn lấy họ là “Hamilton-Reid”, đồng thời khai rằng “tình trạng hôn phối” (conjugal status or marital status) là “chưa bao giờ kết hôn” (never married).
Trong “tờ khai hữu thệ” (affidavit) người vợ đã khai rằng: vào lúc kết hôn bà ta biết rằng bị đơn là ông Hamilton-Reid, và được ông ta cho biết là chưa bao giờ lập gia đình và sinh vào tháng7.1973.
Sau đó người vợ phát hiện do lá thư của do luật sư của bà Reid gởi từ UK cho “Mr Reid” mới biết được rằng bị đơn sinh năm 1968, kết hôn vào năm 1989, có 2 con sinh năm 1991 và 1996. Sau đó ly dị vào năm 1998.
Khi biết những điều bị đơn nói là hòan tòan sai sự thật, nguyên đơn bèn sống ly thân. Sau đó đã nộp đơn để xin tòa tuyên bố là hôn nhân vô hiệu lực. Trong đơn, bà ta đã cho tòa biết rằng bà đã bị lừa gạt.
Tòa đồng ý rằng bị đơn đã đưa ra lời trần thuật sai lạc về tình trạng gia đình, về ngày sinh.
Tòa cũng chấp nhận bằng chứng của nguyên đơn về việc bà ta hòan tòan không hề hay biết về việc bị đơn đã có 2 con.
Tòa cũng chấp nhận bằng chứng do nguyên đơn đưa ra rằng nếu bà ta biết được sự thật đó thì sẽ không bao giờ kết hôn với bị đơn.
Tuy nhiên tòa thấy không đủ bằng chứng để cho rằng bị đơn đã khai tên họ của mình một cách giả dối cho nguyên đơn.
Vấn đề được đặt ra ở đây theo sự quy định của điều 23B(1)(d)(i) là: “liệu sự đồng ý của người vợ đối với việc kết hôn không phải là một sự đồng ý thực vì sự đồng ý đó đã đạt được do sự khi trá hay không” (whether the wife’s consent to marriage was not a real consent because it was obtaibed by fraud).
Tòa cho rằng điều quan trọng để có thể đưa ra phán quyết tuyên bố hôn nhân vô hiệu lực trong vụ này là nếu có sự khi trá liên hệ đến việc nhận diện người mà mình kết hôn, chẳng hạn như hai người sinh đôi giống hệt nhau, một người lại thay thế cho người kia rồi làm lễ cưới với nguyên đơn mà nguyên đơn không hề hay biết, sau đó nguyên đơn mới phát hiện rằng mình đã kết hôn nhầm người.
Tòa không đồng ý rằng lý do lầm lẫn về việc nhận dạng đã không xảy ra trong trường hợp này. Nguyên đơn đã không trưng dẫn được bằng chứng rằng bà ta đã không có ý định kết hôn với người đã hiện diện trong lễ cưới và đã được các nhân chứng chứng nhận.
Cuối cùng Tòa đã từ chối đưa ra án lệnh tuyên bố rằng hôn nhân là vô hiệu lực.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn cô có thể thấy được rằng việc căn cứ vào các lý do mà cô đã nêu lên trong thư để yêu cầu tòa đưa ra án lệnh tuyên bố rằng hôn nhân vô hiệu lực là điều khó có thể thực hiện.
Nói như thế không có nghĩa rằng điều đó không thể thực hiện được, vì nếu cô còn những tình tiết khác hơn là các tình tiết mà cô đã nêu lên trong thư thì cô nên đến gặp luật sư để họ có thể giúp ý cho cô.
Nếu cô còn thắc mắc xin gọi điện thọai cho chúng tôi để được giải đáp thêm.