Hôm nay,  

Kinh Tế Và Bầu Cử Tại Hoa Kỳ

13/03/200800:00:00(Xem: 6635)

...đảng Dân chủ đề ra nhiều biện pháp kiểm soát hoặc hạn chế mậu dịch...
Kinh tế Hoa Kỳ bị suy trầm hay chưa, và sẽ ảnh hưởng ra sao đến cuộc tranh cử tổng thống đang diễn ra tại Mỹ" Kính thưa quý vị, tuần qua, khi dầu thô lên giá tới mức kỷ lục thì thống kê lao động Hoa Kỳ lại cho thấy một sự sút giảm nặng nhất từ năm năm nay. Nguy cơ suy trầm kinh tế tại Hoa Kỳ đang trở thành hiện thực, giữa một cuộc tranh cử tổng thống có đầy bất ngờ. Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu về ảnh hưởng của tình hình kinh tế đối với cuộc bầu cử và chính sách kinh tế của Hoa Kỳ. Phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa sẽ do Việt Long thực hiện sau đây.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, với thống kê lao động vừa được công bố Thứ Sáu mùng bảy vừa qua, dư luận Hoa Kỳ tin rằng kinh tế xứ này đang bị suy trầm vì số người có việc làm đã sút giảm đáng kể trong ba tháng liền. Nhiều người còn dự báo một cuộc khủng hoảng lớn nếu nhìn ra rất nhiều vấn đề chồng chất, như dầu thô lên giá kỷ lục là hơn 109 đồng một thùng, và hệ thống tài chính tín dụng đang bị nghẽn tắc dù Ngân hàng Trung ương đã liên tục hạ lãi suất. Trong khi ấy, cuộc tranh cử tổng thống tại Mỹ đang đi vào giai đoạn ráo riết với rất nhiều bất ngờ mà hồi đầu năm ít ai đoán ra.
Trong chương trình chuyên đề tuần này, xin đề nghị là ta sẽ tìm hiểu xem kinh tế Hoa Kỳ có bị khủng hoảng hay không, và tình hình kinh tế đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến đường lối chính sách Hoa Kỳ trong một năm tranh cử, với hậu quả ra sao trên toàn thế giới.
Thưa ông, câu hỏi đầu tiên của chúng tôi là kinh tế Mỹ có bị khủng hoảng hay không"
- Trước khi đi vào đề tài rất rắc rối này vì bao hàm nhiều dự đoán mà chưa ai biết kết quả, tôi xin được nói tới một khía cạnh văn hoá khá đặc biệt của dân Mỹ.
Người Mỹ nói chung thường rất lạc quan tin tưởng vào định mệnh khác biệt của mình, là gặp trở ngại thách đố nào thì Hoa Kỳ cũng thừa sức vượt qua và thế giới nên theo gương của họ. Đồng thời, cũng người Mỹ lại rất dễ hốt hoảng vì thường bị khủng hoảng vào lúc bất ngờ. Đặc điểm ở đây là cùng một người hay một thành phần dân chúng lại có thể đảo ngược lập trường từ lạc quan sang bi quan thái quá, và thường đảo ngược như vậy trong một năm tranh cử do lý luận của giới chính trị hay truyển thông ít am hiểu về kinh tế.
Năm nay, Hoa Kỳ có tổng tuyển cử để bầu lại Tổng thống, toàn thể Hạ viện, chừng một phần ba Thượng viện và rất nhiều chức vụ dân cử khác, từ Thống đốc các tiểu bang trở xuống, cho nên sự đảo chiều tâm lý là điều rất dễ xảy ra, và có thể là đang xảy ra.
Trở lại câu hỏi của ông, thì từ năm 1929, tức là từ gần 80 năm nay, dân Mỹ luôn chờ đợi một cuộc đổi đời như vụ tổng khủng hoảng 1929-1933 đã phần nào dẫn tới Thế chiến thứ Hai vào năm 1939. Trong năm tranh cử tổng thống, các ứng cử viên đều nhắc dân chúng về viễn ảnh u ám đó và vì năm nay tình hình kinh tế lại có vẻ bết bát hơn nên càng nhiều người nêu lên câu hỏi ấy - tất nhiên là với những hứa hẹn giải cứu.
Hỏi: Nhưng, vụ tổng khủng hoảng 1929 là biến cố gì mà cho đến nay vẫn còn ám ảnh nhiều người Mỹ, khiến thiên hạ lại nói đến nguy cơ tổng khủng hoảng"Tình hình thời đó so với thời nay có gì tương đồng để người ta lại lo sợ như vậy"
- Vào quãng 1920, người Mỹ là dân tộc hồ hởi nhất thế giới với những triển vọng vô biên của nền công nghiệp mở ra trước mắt mà quên hẳn nỗi lầm than của khu vực canh nông đang bị đào thải dần. Như mọi sự thăng trầm trên đời, đỉnh cao của hồ hởi cũng báo hiệu sự suy sụp trước mắt. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã gây hốt hoảng lan rộng và dẫn tới những liều thuốc đổ bệnh, từ khủng hoảng gây ra tổng khủng hoảng.
Dù đã xảy ra từ tám chục năm trước, nỗi kinh hoàng ấy vẫn còn ám ảnh người Mỹ và ám ảnh mạnh mỗi khi kinh tế bị suy trầm, là hiện tượng bình thường của "chu kỳ" hay "thời vụ kinh doanh", thường xảy ra sáu bảy năm một lần. Lần này, chúng ta có thể đang gặp một vụ suy trầm mới sau đợt suy trầm năm 2001, nhưng xảy ra trên nỗi lầm than của khu vực chế biến công nghiệp trong khung cảnh toàn cầu hóa cho nên người ta mới dễ hốt hoảng.
Người lạc quan thì cho rằng kinh tế sẽ bị suy trầm như đã từng bị trong các năm 1981-82, hay 1990-91, hoặc vào năm 2001 và tính bình quân thì nạn suy trầm sẽ không kéo dài quá một năm. Người bi quan thì cho rằng lần này sẽ khác và có thể là một tái diễn của 1929.
Hỏi: Nhưng liệu chúng ta có thể biết trước được thời điểm hay mức độ trầm trọng của nạn suy trầm hay suy thoái hay khủng hoảng ấy không"
- Với tất cả những hiểu biết của nhân loại về kinh tế học từ hơn hai thế kỷ nay, người ta vẫn chỉ có năm sáu cách dự báo không hoàn toàn chính xác, là đúng hay sai về thời điểm và về cường độ. Tuy nhiên, cũng nhờ học hỏi kinh nghiệm từ vụ Tổng khủng hoảng 1929, hệ thống Ngân hàng Trung ương Mỹ biết cách ứng phó linh động và chuẩn xác hơn nên nhờ đó mà chu kỳ suy trầm không kéo dài và mức độ suy sụp cũng bớt trầm trọng.
Nói chung thì cho đến nay, chưa ai có thể biết trước được mọi việc. Chuyện éo le là khi cơ quan có khả năng theo dõi rất sát như Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia, gọi tắt là NBER, thông báo rằng kinh tế đang bị suy trầm thì thực tế là nạn suy trầm đã kết thúc. Nhưng vì mọi sự đều mơ hồ như vậy nên các chính trị gia càng có cơ hội báo động hay đề nghị giải pháp cứu nguy, đôi khi là giải pháp đổ bệnh mà mãi về sau người ta mới biết được.
Hỏi: Nhưng chẳng lẽ một quốc gia tiên tiến về kinh tế như Hoa Kỳ lại không biết là tình hình kinh tế đang lên hay xuống hay sao"
- Dạ thưa không biết và đấy mới là sự lý thú của đời sống! Chỉ có chủ quan như Marx mới mạnh miệng nói về quy luật kinh tế hay thiếu hiểu biết kinh tế như Lenin mới cho rằng quản lý kinh tế theo kiểu tập trung kế hoạch cũng đơn giản máy móc như phát thư!
Cũng vậy, mươi năm về trước nhiều người Mỹ hồ hởi nói đến sự xuất hiện của một hình thái gọi là "kinh tế mới" nhờ cuộc cách mạng siêu kỹ thuật khiến kinh tế sẽ thoát khỏi sức hút của địa cầu và ra khỏi quy luật chu kỳ kinh doanh bình thường. Sau đó là vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 2000 và nạn suy trầm năm 2001. Vì vậy mà ta mới nói về tính lạc quan thái quá sau đó là sự hốt hoảng bậy của cùng một thành phần dân chúng.
Nhưng ta nên trở lại đề tài hôm nay là từ sau Thế chiến II, kinh tế Hoa Kỳ đã trải qua ba giai đoạn tăng trưởng dài ngắn khác nhau qua nhiều đổi thay lớn trong cơ cấu sản xuất. Sự thay đổi ấy đang diễn ra trong khu vực công nghiệp chế biến nên dẫn tới phản ứng dội ngược là tinh thần bảo hộ mậu dịch và thậm chí chống toàn cầu hoá đang xảy ra tại Mỹ, với hậu quả vô cùng tai hại cho thế giới, trong đó có cả Việt Nam.


Hỏi: Trước khi nói về các phản ứng dội ngược ấy, xin hỏi ông về những giai đoạn tăng trưởng đã qua, đi cùng những đổi thay trong cơ cấu sản xuất của Hoa Kỳ.
- Sau Thế chiến II, việc tái thiết và phát triển đã kéo dài liên tục trong hai chục năm, nói cho gọn là từ 1948 đến 1968, với đà công nghiệp hoá liên tục đã dẫn tới nhiều đổi thay trong xã hội. Kế tiếp là thời kỳ hoài nghi lo sợ và hàng loạt biện pháp kinh tế với tác dụng ngược là suy trầm đi cùng lạm phát cao và thất nghiệp nặng, từ 1968 cho tới đầu thập niên 80, tới năm 1982.
Hỏi: Nhưng thời điểm 1968 ấy có khi cũng trùng với cuộc chiến tại Việt Nam nên có là một yếu tố chi phối hay không"
Thưa cuộc chiến Việt Nam không giải thích tất cả sự việc, vì đây có thể là một trạng thái khủng hoảng xã hội với những giải pháp kinh tế bao cấp vào thời kỳ 1968-1981.
Từ năm 1982, sau nạn suy trầm 1981-82, kinh tế Mỹ mới bước qua một giai đoạn phát triển liên tục trong một phần tư thế kỷ, với lạm phát thấp, lãi suất nhẹ và thất nghiệp ít. Giai đoạn ấy dẫn tới trào lưu toàn cầu hoá với những đổi thay lớn trong cấu trúc tài chính thế giới được xây dựng từ sau Thế chiến II.
Nhưng ngay trong nước Mỹ, nền công nghiệp chế biến cũng phải thoát xác, nhiều ngành bị đào thải. Chính là yêu cầu đổi thay ấy dẫn tới phản ứng ngược là chống toàn cầu hoá và bảo hộ mậu dịch. Tinh thần bi quan hốt hoảng mới làm nhiều người nói đến tổng khủng hoảng dù sự thể có thể chỉ là một vụ suy trầm nhẹ. Và các chính trị gia làm nốt phần vụ còn lại là gióng chuông báo động để đắc cử!
Hỏi: Chẳng lẽ người dân Mỹ lại ngây thơ nhẹ dạ như vậy hay sao"
- Thưa không hẳn như vậy, nhưng nếu nói chung là họ có ưu điểm là tích cực lao về phía trước thì cũng có nhược điểm là khá mù mờ về lịch sử. Từ cuối thế kỷ 19, từ sau cuộc Nội chiến, Hoa Kỳ tìm ra định mệnh mới với một lãnh thổ bát ngát, di dân tràn ngập và đầu tư Âu châu dồi dào. Với ba yếu tố sản xuất là đất đai, lao động và tư bản có sẵn, Hoa Kỳ sớm vươn lên thành một cường quốc công nghiệp và coi như có thể chiến thắng được định mệnh cho tới cuộc Tổng khủng hoảng 1929 thì mới chưng hửng, như cũng sẽ chưng hửng khi bị Nhật Bản tấn công tại Trân châu cảng vào năm 1941. Những yếu tố ấy có thể giải thích vì sao dân Mỹ hay lạc quan tự tin rồi lại dễ hốt hoảng.
Ngày nay, trong thời đại hậu công nghiệp, họ cũng dễ bị khủng hoảng tâm lý vì quên hẳn hiệu năng rất cao của khu vực dịch vụ với vai trò của công nghệ tin học, nhưng lại được nhắc nhở về những suy tàn trong khu vực công nghiệp chế biến để lui về chế độ bao cấp.
Hỏi: Ý kiến đó khiến chúng ta bước qua phần thứ hai của chương trình, về những chủ trương kinh tế trong cuộc tranh cử hiện nay tại Mỹ. Ông có nói tới phản ứng dội ngược với tinh thần bảo hộ mậu dịch, thậm chí chống toàn cầu hoá. Vì sao lại như vậy"
- Có lẽ chúng ta sẽ phải dành riêng một chương trình cho vấn đề này.
Tôi chỉ xin được nói vắn tắt là đảng Dân chủ tại Hoa Kỳ đang trở thành một đảng lui về xu hướng bảo hộ mậu dịch và hai ứng cử viên tổng thống của đảng này là Nghị sĩ Hillary Clinton của New York và Barack Obama của Illinois đang thi đua thành tích bảo hộ, qua việc xét lại các hiệp định tự do thương mại Hoa Kỳ đã ký kết. Bên đảng Cộng hoà thì Nghị sĩ John McCain vẫn đề cao tự do mậu dịch như đa số nhân vật dân cử trong đảng.
Điều đáng chú ý ở đây là trong lịch sử và từ khi thành lập, đảng Dân chủ vẫn là một đảng đề cao kinh tế thị trường và tự do mậu dịch trong khi đảng Cộng hoà mới có lúc chủ trương tự cô lập và bảo hộ mậu dịch. Ngày nay, sự thể lại đảo điên khác hẳn và sau khi chiếm đa số trong Quốc hội vào tháng 11 năm kia, đảng Dân chủ đề ra nhiều biện pháp kiểm soát hoặc hạn chế mậu dịch, thậm chí xét lại nhiều hiệp định Hoa Kỳ đã ký kết.
Một điển hình là Thỏa ước Tự do Mậu dịch Bắc Mỹ NAFTA áp dụng từ năm 1994.
Đây là một thành tích đáng kể của Tổng thống Bill Clinton sau hai năm vận động vất vả và thông qua được là nhờ lá phiếu Cộng hoà trong Quốc hội. Thoả ước này mở rộng trao đổi kinh tế với hai đối tác quan trọng nhất của Mỹ về ngoại thương là Canada và Mexico. Bây giờ, đảng Dân chủ đang đòi xét lại Thỏa ước này đến độ Nghị sĩ Hillary Clinton phải đi ngược với quan điểm của ông Clinton mà đề nghị một khoảng thời gian tạm hoãn để tái xét. Khi kinh tế Mỹ lại bị nguy cơ suy trầm như hiện nay, với thất nghiệp tăng và sản xuất giảm, nhiều người sẽ thấy rằng chính sách bảo hộ mậu dịch ấy là đúng.
Các quốc gia đang buôn bán với Hoa Kỳ đều theo dõi rất sát sự việc này và mong rằng đây chỉ là vì nhu cầu tranh cử nhất thời chứ Mỹ sẽ không đơn phương phủ nhận những cam kết ngoại thương của mình. Từ nay đến tháng Tám, khi cuộc tranh cử tổng thống Mỹ đi vào vòng cuối, chúng ta sẽ còn trở lại đề tài này, và khi ấy những chỉ dấu của thịnh suy kinh tế tại Mỹ cũng có thể rõ ràng hơn.
Hỏi: Chúng ta đã đi đến cuối chương trình, xin hỏi ông một câu rất nóng về tình hình kinh tế Việt Nam. Sau những hốt hoảng vừa qua trên thị trường chứng khoán mà ông có đề cập tới, Chính phủ Việt Nam đã ban hành biện pháp cứu vãn với việc Tổng công ty Quản lý vốn nhà nước SCIC được phép mua lại cổ phiếu của một số doanh nghiệp trên thị trường để kích cầu. Nhiều người thắc mắc nêu câu hỏi là biện pháp ấy có công hiệu hay không. Câu trả lời của ông ra sao"
- Câu trả lời vắn tắt của tôi là đấy là liều thuốc đổ bệnh để cứu một thiểu số mà có thể gây họa cho đa số, là điều chúng ta đã cảnh báo từ chương trình tuần trước.
Câu trả lời chi tiết hơn một chút là: thị trường chứng khoán đang rơi đúng thực giá của nó, dù việc ấy không hợp với ước vọng của các nhà đầu tư tay mơ đã đi vào thị trường như vào sòng bạc. Nhưng thay vì giải thích cho rõ và tập trung giải quyết vấn đề ưu tiên và có ảnh hưởng cho đại đa số dân chúng là nạn vật giá gia tăng phi mã, thì người ta lại nhìn vào cái ngọn là nạn thiếu thanh khoản nhất thời mà can thiệp vào thị trường bằng cách bơm tiền. Hậu quả là giá cổ phiếu có thể tạm chững vài ngày nhưng vẫn là tín hiệu sai cho thị trường và sẽ còn gây thêm lầm lạc cho nhà đầu tư.
Sau đó biện pháp này còn nâng cao bội chi ngân sách, tức là gây thêm lạm phát, và sẽ củng cố vai trò của doanh nghiệp nhà nước, tức là đi ngược sự cam kết với WTO khiến Việt Nam mất niềm tin của thế giới. Trong một kỳ sau, có lẽ ta nên trở lại vấn đề của các liều thuốc đổ bệnh đã dẫn đến khủng hoảng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.