Hôm nay,  

Nghiên Cứu Mới: Một Số Dấu Ấn Sinh Học Khách Quan Có Thể Giúp Điều Trị Trầm Cảm Chuẩn Xác Hơn

06/10/202300:00:00(Xem: 916)
tram cam
Nghiên cứu mới cho thấy, kích thích các nhân sâu trong não có thể làm thuyên giảm chứng trầm cảm ở một số bệnh nhân. (Nguồn: pixabay.com)
 
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
 
Trái lại, đối với trầm cảm và các chứng rối loạn tâm thần khác, bác sĩ lâm sàng phải dựa vào các khảo sát chủ quan và không đặc hiệu, hỏi bệnh nhân về các triệu chứng của họ. Vậy khi một bệnh nhân nói với bác sĩ rằng họ đang có những cảm xúc tiêu cực, thì đó là vì chứng trầm cảm tái phát hay chỉ là họ đã trải qua một ngày tồi tệ như bao người? Họ lo lắng vì có những cảm giác mới khi các triệu chứng trầm cảm đã thuyên giảm, hay bởi vì một số vấn đề khác không liên quan đến chứng trầm cảm? Mỗi lý do có thể đưa đến một biện pháp khác nhau, chẳng hạn như thay đổi loại thuốc, giải quyết một vấn đề trong liệu pháp tâm lý hoặc tăng cường độ điều trị kích thích não.
 
Trong nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Nature, các nhà nghiên cứu đã xác định được các dấu ấn sinh học tiềm năng để kích thích các nhân sâu trong não, trong tương lai có thể giúp các bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân định hướng khi đưa ra quyết định điều trị để giúp thuyên giảm chứng trầm cảm.
 
Dấu ấn sinh học cho bệnh trầm cảm
 
Một số lượng bệnh nhân đáng kể mắc bệnh trầm cảm lâm sàng không đáp ứng với các liệu pháp điều trị hiện có. Các nhà nghiên cứu đang nỗ lực tìm kiếm các lựa chọn thay thế nhằm chữa trị cho những người bị trầm cảm không đáp ứng điều trị. Hàng loạt thí nghiệm trong nhiều thập niên đã xác định được các mạng lưới não nào có hoạt động điện não bất thường ở những người bị trầm cảm.
 
Khái niệm trầm cảm này được hiểu là hoạt động bất thường của não chứ không phải là sự mất cân bằng hóa học trong não. Nó đã dẫn đến sự phát triển của phương pháp kích thích các nhân sâu trong não để điều trị trầm cảm. Người ta sẽ cấy ghép một thiết bị giống như máy tạo nhịp tim để truyền xung điện đến một số vùng nhất định của não. Các nghiên cứu thử nghiệm kỹ thuật này đã phát hiện ra rằng nó có thể làm giảm mức độ trầm cảm theo thời gian ở hầu hết bệnh nhân.
 
Nhóm nghiên cứu muốn tìm ra những thay đổi cụ thể trong các hoạt động của não, có thể đóng vai trò là dấu ấn sinh học, để đo lường một cách khách quan mức độ cải thiện tình trạng của bệnh nhân trầm cảm sau khi sử dụng phương pháp DBS. Họ đã theo dõi hoạt động não của 10 bệnh nhân được sử dụng phương pháp DBS trong hơn sáu tháng để điều trị treatment-resistant depression.
 
Vào cuối giai đoạn 6 tháng, 90% bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp – giảm tối thiểu một nửa các triệu chứng – và 70% đã thuyên giảm trầm cảm lâm sàng.
 
Để xác định dấu ấn sinh học tiềm năng, nhóm nghiên cứu đã phát triển một thuật toán tìm kiếm các mô hình thay đổi hoạt động của não khi bệnh nhân hồi phục, dựa trên dữ liệu từ 6 trong số 10 bệnh nhân ban đầu. Họ nhận thấy có những thay đổi phối hợp ở các tần số khác nhau trong các hoạt động ở vùng não được kích thích. Dự vào các mô hình này, thuật toán có thể dự đoán liệu bệnh nhân có đang hồi phục ổn định sau mỗi tuần hay không, với độ chính xác lên tới 90%.
 
Các nhà nghiên cứu cũng quan sát thấy một số phần của mô hình này phát triển theo hướng ngược lại sau khi sử dụng liệu pháp kích thích so với khi bắt đầu trị liệu. Phát hiện này cung cấp bằng chứng cho thấy sự phục hồi lâu dài là do não thích ứng với sự kích thích – quá trình này được gọi là tính dẻo dai của não – chứ không phải là tác động trực tiếp của biện pháp kích thích.
 
Nhóm nghiên cứu cũng thấy các dấu ấn sinh học tiềm năng khác cần nghiên cứu thêm.
 
Thí dụ, những bất thường trong hình ảnh não được chụp trước khi cấy các điện cực vào có liên quan đến mức độ bệnh của từng bệnh nhân. Điều này có thể cung cấp manh mối về nguyên nhân gây trầm cảm ở một số người, hoặc giúp phát triển các phương pháp chụp quét hình ảnh để xác định ai nên áp dụng phương pháp DBS.
 
Thí dụ khác, các nhà nghiên cứu nhận thấy nét mặt của bệnh nhân thay đổi khi các hoạt động trong não của họ thay đổi trong quá trình điều trị. Mặc dù các bác sĩ thường báo cáo điều này theo kinh nghiệm truyền miệng, nhưng ước lượng những thay đổi này có thể cung cấp một cách để phát triển các dấu hiệu phục hồi khách quan, kết hợp các hành vi với tín hiệu não của bệnh nhân.
 
Bởi vì nghiên cứu mới chỉ dựa trên một số lượng nhỏ bệnh nhân, nên nhóm nghiên cứu sẽ là phải điều tra sâu hơn xem chúng có thể được áp dụng rộng rãi cho các bệnh nhân khác hay không, và phát triển các thiết bị DBS mới hơn.
 
Cải thiện việc ra quyết định cho bệnh trầm cảm
 
Trầm cảm lâm sàng là một chứng bệnh gây ra nhiều khổ sở cho cả bệnh nhân và xã hội. Đây là một trong những chứng bệnh góp phần vào gánh nặng bệnh tật chung của nhiều quốc gia. Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị đã được chuẩn thuận, nhưng gần 30% trong số 8.9 triệu người ở Hoa Kỳ dù đang sử dụng thuốc điều trị trầm cảm nhưng vẫn bị các triệu chứng dày vò.
 
Kích thích não bộ là một trong những liệu pháp thay thế đang được nghiên cứu sử dụng cho chứng trầm cảm mà các phương pháp điều trị thông thường không hữu hiệu. Liệu pháp này có thể giúp chữa trị hiệu quả và lâu dài cho một số bệnh nhân.
 
Mặc dù DBS đã được phê duyệt để điều trị các tình trạng khác như bệnh Parkinson, nó vẫn đang được thử nghiệm đối với bệnh trầm cảm chống lại các phương pháp điều trị thông thường. Và dù kết quả rất khả quan, nhưng chúng vẫn cần phải được tiếp tục thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên và quy mô lớn.
 
Tìm ra một dấu ấn sinh học khách quan để đo lường sự phục hồi bệnh trầm cảm có thể giúp cải thiện các quyết định điều trị. Thí dụ, trong nghiên cứu, một bệnh nhân bị tái phát sau vài tháng thuyên giảm. Nếu có sẵn dấu ấn sinh học vào thời điểm đó, nó sẽ giúp cảnh báo việc tái phát trước vài tuần. Công cụ này có thể giúp các bác sĩ lâm sàng ra quyết định can thiệp kịp thời trước khi bệnh tái phát.
 
Nguồn: “Depression recovery can be hard to measure − new research on deep brain stimulation shows how objective biomarkers could help make treatment more precise” của Christopher Rozell và Sankaraleengam Alagapan, được đăng trên trang TheConversation.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập thể dục thường được nói đến như một yếu tố quan trọng giữ đầu óc tỉnh táo, nhưng có nhiều nghiên cứu cho thấy sự khác biệt và lắm lúc còn có thể có những hiệu quả ngược lại nữa. Một nghiên cứu mới đã tóm tắt tác động của việc rèn luyện thể chất đối với sức khỏe trí óc, trong đó bao gồm trí nhớ, sự chú ý, khả năng ra quyết định và tốc độ giải quyết thông tin của não. Theo kết quả rõ ràng của các nhà nghiên cứu, các hoạt động rèn luyện và tập thể dục nhằm mục đích cải thiện thể lực và hấp thụ oxy chỉ có tác dụng thấp đối với khả năng nhận thức. Ngược lại, tập yoga có tác động tích cực đến sức khỏe trí óc và có nhiều khả năng dẫn đến sự thay đổi rõ rệt về chức năng nhận thức.
Một loạt các biến thể mới của Omicron đang khiến số ca nhiễm COVID-19 gia tăng và số trường hợp bị bệnh nặng cũng nhiều hơn. Trong tuần cuối cùng của tháng 8, đã có hơn 650 người chết vì COVID-19, tăng 10% so với tuần trước đó, và có 17,000 trường hợp mới phải vào bệnh viện.
“Tim đập liên hồi.” “Bồn chồn trong dạ.” “Tim muốn rớt ra ngoài.” “Nẫu ruột.” Đây là những cụm từ được nhiều người sử dụng để mô tả nỗi sợ hãi và lo âu. Thường thì chúng ta có thể cảm thấy được những cảm giác lo lắng, sợ hãi ở lồng ngực hoặc trong bụng chứ không phải ở não. Nhiều nền văn hóa có truyền thống gắn liền sự hèn nhát và dũng cảm với hình ảnh trái tim hoặc lòng dạ hơn là với bộ não.
Bệnh gan đang trở nên phổ biến hơn ở các nước phương Tây. Tại Thụy Điển, ước tính có khoảng một triệu người mắc bệnh gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ, đúng như tên gọi có nghĩa là gan tích tụ mỡ, không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Vì vậy, hầu hết người bịnh không biết rằng họ có chất béo tích tụ, mà ở một số người cuối cùng có thể phát triển thành xơ gan và ung thư gan. Một nghiên cứu ở Thụy Điển cho thấy số người mắc bịnh gan nhiễm mỡ ngày càng gia tăng.
Nhà sinh lý học vĩ đại người Pháp Claude Bernard đã phát triển khái niệm về nội môi (le milieu intérieur, tiếng Anh là the internal environment, tạm hiểu là môi trường bên trong cơ thể): môi trường chất lỏng được điều tiết tinh tế bao quanh các tế bào, chảy qua các động mạch và tĩnh mạch, thấm vào tất cả các cơ và dây thần kinh, cơ quan và xương trong cơ thể chúng ta. Hai trái thận phải làm khá nhiều việc để duy trì trạng thái cân bằng cho môi trường chất lỏng này, hay còn gọi là “cân bằng nội môi” (homeostasis). Chúng loại bỏ nhiều chất với nhiều kích thước khác nhau ra khỏi máu. Các chất này là phụ phẩm khi cơ thể tạo ra và đốt cháy năng lượng, và sẽ trở nên độc hại nếu tích tụ quá nhiều. (Gan thì trực tiếp loại bỏ các hóa chất khác ngay sau khi tiêu hóa, như rượu và ma túy, trong khi ruột, phổi và da thì thực hiện các chức năng bài tiết bổ sung.)
Thương hiệu số một trên thế giới, CheongKwanJang, hòa nhập với xu hướng Thực Phẩm Dược Tính toàn cầu, đã thông báo về sự hợp tác với chuỗi nhà hàng Kabuki của Nhóm Kaizen Dining. Sự hợp tác này, kết hợp truyền thống 120 năm và lợi ích sức khỏe của CheongKwanJang với ẩm thực Nhật Bản quen thuộc đối với người Mỹ, đã được tiết lộ tại một sự kiện diễn ra vào ngày 6 tháng 9 tại nhà hàng chính của Kabuki Huntington Beach. Tiến sĩ Lee Yun-beom, CEO của CheongKwanJang tại trụ sở Hoa Kỳ, đã tuyên bố: "Hồng Sâm Hàn Quốc, được biết đến khoa học với tên gọi Panax Ginseng C.A. Meyer, khác biệt với các loại sâm được tìm thấy tại Hoa Kỳ hoặc các khu vực khác; Nó đã được xác minh khoa học thông qua hơn 450 nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ."
Năm ngoái, các bác sĩ tại một bệnh viện ở Canberra đã sốc tới lặng người khi gắp một con giun sống ra khỏi não một phụ nữ. Trước đó, nữ bệnh nhân này phải vào bệnh viện với các triệu chứng như bị đau dạ dày, ho khan, đổ mồ hôi đêm trong hàng tháng trời, sau đó thì bà bị trầm cảm và hay quên. Bệnh nhân đã được chỉ định đi scan não.
Người ta thường nói rằng tất cả chúng ta rồi sẽ trở nên mất trí nhớ - trừ khi chết vì ung thư hoặc bệnh tim mạch. Tất nhiên, có những người chết vì các bệnh khác, tai nạn hoặc tự tử. Nhưng chính chứng mất trí nhớ, ung thư và bệnh tim mạch lại chiếm ưu thế trong danh sách về nguyên nhân tử vong. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh tim mạch đã tiến bộ và tỷ lệ sống sót hiện nay cao hơn nhiều. Ung thư đã từ một bản án tử hình trở thành một căn bệnh có thể điều trị được - mặc dù vẫn có những biến thể mà tỷ lệ tử vong gần một trăm phần trăm.
Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Lund, Thụy điển đã tìm ra một phương pháp để có thể phát hiện sớm các bệnh nghiêm trọng trong não, chẳng hạn như bệnh Parkinson, bằng cách thử dịch tủy sống sau lưng. Và họ cho biết rằng dấu hiệu ban đầu của bệnh là giảm khứu giác, tin từ Đài truyền hình Thụy điển. Tại Phòng khám Trí nhớ ở thành phố Malmö, Thụy điển, các bác sĩ lấy dịch tủy sống từ những người tình nguyện tham gia nghiên cứu bằng một cây kim vào giữa hai đốt ở cột sống, qua thử nghiệm đó các nhà nghiên cứu biết người đó có khả năng mang chứng bịnh thể Lewy* không? Các chứng bịnh thể Lewy là thuật ngữ chung cho bệnh Parkinson và chứng mất trí nhớ thể Lewy, hay còn gọi là sa sút trí tuệ Lewy.
Theo tờ Smithsonianmag, trong một cuộc phẫu thuật thử nghiệm đột phá, các khoa học gia đã điều trị cho bốn bệnh nhân bị thương nặng ở một mắt bằng cách cấy ghép tế bào gốc từ mắt còn lại. Ula Jurkunas, bác sĩ nhãn khoa tại Massachusetts Eye and Ear và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu mới, cho biết: “Báo cáo từng trường hợp cụ thể về bốn bệnh nhân cho thấy một số thông số đã có sự cải thiện, đồng thời cơn đau cũng như các triệu chứng khó chịu đều có giảm bớt.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.