Hôm nay,  

Một chút cảm nhận

18/02/202410:36:00(Xem: 1167)

Screenshot 2024-02-13 080940



Đọc xong hai quyển “Theo dấu thư hương” và “Chỉ là đồ chơi” của nhà văn Trịnh Y Thư đã lâu, trong lòng cảm hứng muốn viết một chút cảm nhận nhưng cứ bận bịu nên lần lữa mãi. Thật ra mà nói thì tôi cũng không biết viết như thế nào và bắt đầu từ đâu, đây là lần đầu làm cái việc viết cảm nhận về sách. Tôi biết mình không có khả năng đọc sâu, nhìn nhận hay phân tích. Tôi xưa nay vốn đơn thuần dùng cảm tính chứ chẳng biết dùng lý tính nên cứ mơ hồ ngu ngơ.
    Việc nhận định một tác phẩm hay một quyển sách đòi hỏi người viết phải đọc kỹ, kiến văn quảng bác, biết lý luận, phân tích và cần có công tâm, bản lãnh. Một điều rất quan trọng nữa là phải lương thiện, không vì phe ta mà bốc thơm, áo thụng vái nhau. Không vì không thuộc phe ta mà chê bai hay phủ nhận cái hay của người. Việc nhận định, phê bình một quyển sách là một việc làm khó, rất khó, dễ gây thù chuốc oán với tác giả. Ấy vậy mà sau khi đọc xong “Theo dấu thư hương” và “Chỉ là đồ chơi” thì tôi rất khâm phục anh Trịnh Y Thư. Anh đã làm được cái việc khó khăn này một cách xuất sắc. Nhờ đọc những phân tích, nhận định của anh mà tôi hiểu thêm nhiều điều, thấy thêm những mặt khuất mà khi đọc những tác phẩm ấy đã không nhận ra.
    Hai chữ “Thư hương” rất hay, rất đẹp, gợi lên trong tâm trí chúng ta một chút hoài niệm của một thời. Ngày xưa những anh học trò, nho sinh, người biết chữ, người đọc sách, người võ vẽ về căn chương… đều được cho là “Nòi thư hương”. Chữ Nho có câu: “Vạn bang giai hạ phẩm/ duy hữu độc thư cao” là vậy. Với người xưa, phàm những ai dính dáng đến chữ nghĩa, văn thơ, sách vở… đều rất được tôn trọng, cho là cao quý, cho dù đó chỉ là anh học trò nghèo. Hai chữ “Thư hương” cũng đồng nghĩa cốt cách Nho gia. Ngày xưa những nhà Nho thanh bạch học chữ, đọc sách để dưỡng tâm, luyện chí chứ không phải để làm quan hay mưu cầu công danh. Khi nhà phê bình văn học Trịnh Y Thư chọn cái tựa sách “Theo dấu thư hương” thì lập tức tự nhiên thấy thân thương chi lạ cho dù chưa đọc đến nội dung.
    Quyển thứ hai “Chỉ là đồ chơi”, tên sách khiến tôi liên tưởng đến thi sĩ Bùi Giáng. Ông ấy luôn miệng bảo rằng: “Chơi thôi mà” mỗi khi có ai khen hay tán thưởng thơ ông. Ừ, thì có sá gì, chỉ là đồ chơi thôi mà! Sách vở, văn thơ, chữ nghĩa… là đồ chơi của những người mang nghiệp viết lách, sá gì lời khen hay chê. Đòi mấy mươi năm ấm lạnh cũng chỉ là một cuộc chơi, nhân tình thế thái là một cuộc chơi của tâm thức. Quốc gia là cuộc chơi quyền biến. Thế giới và vũ trụ cũng là một cuộc chơi của tụ tán và tuần hoàn. Vậy thì sách vở văn chương kia có ý nghĩa gì? cũng chí là món đồ chơi, những món đồ chơi được nặn ra bởi tim óc và tâm ý của những thi sĩ, văn sĩ. Những món đồ chơi hao hơi tổn lực, lao tâm khổ trí rất nhiều. Những món đồ chơi chứa đựng cả một trời tâm sự buồn-vui và bao nhiêu sắc thái khác của tâm hồn. Những món đồ chơi tuy không hề có dụng ý “Văn dĩ tải đao” nhưng tự thân nó cũng đã chuyển tải và bao hàm rồi, có thể nhiều-ít, hoặc vô tình hay cố ý. Thế giới muôn loài, duy chỉ loài người mới có tri giác, có văn tự. Chỉ có loài người mới biết chế ra và thưởng lãm những món đồ chơi ấy!
    Đọc xong cả hai quyển sách, cảm nhận đầu tiên của tôi choáng ngợp trước sức đọc và tầm mức đa văn túc trí của anh Trịnh Y Thư. Anh đọc và quán xuyến rất nhiều tác phẩm văn học cả phương đông lẫn phương tây, không chỉ những tác phẩm danh tiếng, tác phẩm đoạt giải thưởng lớn mà ngay cả những tác phẩm đã lặng yên phần nào với thời gian. Anh đọc rộng rãi từ văn học cổ điển cho đến hiện đại và những trào lưu mới nhất của Mỹ, Anh, Tây Ban Nha, Nhật... dĩ nhiên là cả Việt Nam.
Điểm thứ hai tôi cảm nhận là ngòi bút phê bình, nhận định của anh rất sắc bén và sâu sát. Lời bàn thấu tình đạt lý, không dùng từ ngữ đao to búa lớn, khen chê chừng mực, không cực đoan, thuần túy bình yếu tố văn, ngôn ngữ, bút pháp…
    Tôi đã đọc qua tiểu thuyết Jane Eyre của Charlotte Bronte, tuy nhiên đọc một cách hời hợt và nhảy cóc, mãi đến khi đọc những nhận định của anh Trịnh Y Thư thì tôi mới thấy thêm nhiều điều mới mẻ, mới cảm nhận sâu hơn một chút về Jane Eyre. Cái xã hội Anh ở thế kỷ XIX cũng như trước đó quả thật vô cùng nghiệt ngã. Người phụ nữ phải sống như cây tầm gởi. Cả ba chị em nhà Charlotte Bronte viết sách mà không dám dùng tên thật của mình, phải giả một cái tên đàn ông để in sách. Jane Eyre và cũng là chính tác giả đã dũng cảm đương đầu với những định kiến và định chế xã hội để có một chỗ đứng độc lập. Cái xã hội ấy sao mà giống hệt cái hoàn cảnh của xã hội phong kiến Việt Nam. Thời ấy người phụ nữ chỉ có bổn phận bếp núc thêu thùa hoặc là “gái trong kim chỉ trai ngoài bút nghiên”. Cái tư tưởng phong kiến này hoàn toàn ăn ý với cái tư tưởng nam quyền của xã hội Anh thời ấy. Thi sĩ Robert Southey đã trả lời Charlotte như sau: “Văn chương không thể là công việc trong đời sống người phụ nữ, và không nên biến nó thành như thế...” Nữ văn sĩ Charlotte Bronte khi viết Jane Eyre đã làm nên một cuộc cách mạng nữ quyền  thông qua câu chuyện một cô gái mồ côi, nghèo khổ, không nhan sắc nhưng đã vươn lên bằng nghị lực, thông minh và ý chí của mình; đã tự định đoạt tương lai của mình. Đọc Jane Eyre ta cảm nhận ấy chính là tự truyện của tác giả. Đọc xong tôi cũng liên tưởng đến trường hợp Hồ Xuân Hương của Việt Nam ta.
    Ở bài phân tích và nhận định về quyển “Đời nhẹ khôn kham” của Milan Kundera. Trịnh Y Thư mở ra cho chúng ta thấy một khía cạnh khác. Anh trích dẫn câu nói của Milan Kundera: “Tiểu thuyết gia không phải là người hầu của sử gia” điều này cho thấy lịch sử chính trị chỉ là bối cảnh. Tôi cảm nhận cả dịch giả và tác giả đều chống lại chủ thuyết luận đề trong văn chương, không chấp nhận văn chương là một văn bản tuyên truyền chính trị. Tôi nhận thấy Trịnh Y Thư rất dị ứng với lối văn dính vào chính trị, tuyên truyền chính trị và anh cũng không thích cái lối “Văn dĩ tải đạo”. Ấy là một trong nhiều lý do mà anh rất thích và mến mộ Milan Kundera.

    Khi dịch quyển “Huyền thoại mùa thu” của Jim Harrison, Trịnh Y Thư đã giúp cho chúng ta biết đây là một câu chuyện thuật lại bằng bút pháp đặc biệt, giọng văn giản dị, không dùng ý niệm siêu hình hay trừu tượng. Jim Harrison cùng với nhiều người khác đã định hình cho một diện mạo phong phú và đa dạng của văn xuôi Mỹ. Jim Harrison còn là một thi sĩ và ông đã sống trọn đời cho văn chương nghệ thuật.
    Cũng trong quyển “Theo dấu thư hương” này, Trịnh Y Thư giúp “khai mở” một góc độ nào đó cho độc giả khi đọc văn của Cung Tích Biền, Ngô Thế Vinh, Trần Vũ, Nguyễn Thanh Việt… và thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Lương Vỵ, Khế Iêm... Ở đây tôi chỉ nói cái cảm nhận riêng của mình, có thể hợp với người này nhưng không hợp với người khác, thậm chí rất “tào lao” hay “tầm phào” với ai đó… Quý vị hãy đọc “Theo dấu thư hương” để thấy một dịch giả tài hoa như thế nào, một nhà phê bình sâu sắc như thế nào.
    Giới văn nghệ sĩ vẫn thường bảo nhau Trịnh Y Thư còn là một tay guitar xuất sắc, ngoài viết văn làm thơ, dịch thuật anh thường đắm mình trong những cung bậc guitar cổ điển. Khi đọc bài văn anh viết về nhạc sĩ Lê Văn Khoa, nhất là khi anh nhận định và phân tích khúc giao hưởng “Symphony Viet Nam 1975” thì độc giả có thể mường tượng ra kiến thức về nhạc lý, đôi tai thẩm âm của anh vi diệu như thế nào. Anh phân tích từng hành khúc, chỉ ra sự kết hợp của nhạc ngũ cung Việt với nhạc cụ phương tây, bấy giờ độc giả chỉ còn biết ngẩn ngơ ra trước sự thẩm âm thượng thừa của một tay guitarist điêu luyện. Anh dẫn dắt độc giả đi từ hành âm thứ nhất với âm hưởng dân ca “Trèo lên quán dốc”, hành âm thứ hai “Đám rước”, hành âm thứ ba “Hội hè”, hành âm thứ tư “trăng rằm”… Anh đã kết luận khi nghe xong khúc giao hưởng “Symphony Viet Nam 1975” rằng: “ Đấy là human spirit… Tôi nhận ra khát vọng muốn sống của con người, con người nói chung, không riêng gì con người Việt Nam. Sống như một con người. Một con người tự do”.
    Cũng trong quyển “Chỉ là đồ chơi” anh biểu tỏ cái nhìn của anh về hội họa, cụ thể qua những tác phẩm của họa sĩ Nguyên Khai. Ở bức tranh “Âm nhạc xanh” anh viết: “... La đà. Vô định. Dật dờ. Nào biết về đâu. Nào biết đâu là thủy, đâu là chung. Như cái hư vô của trời đất. Như cái bóng của thời gian...” Bức tranh với gam màu xanh thẫm làm nền gợi nhớ nỗi buồn vô hạn, trên ấy loáng thoáng những vệt sáng như bóng nước, như bông gòn lại như tuyết phất phơ… Ở bức tranh “Cũng có nhà thờ Đức Bà ở New York”, anh giúp độc giả hiểu một cách đại khái về ý nghĩa bức tranh. Anh viết: “Trơ trọi, ngơ ngác – nằm lạc lõng giữa trùng vây những tòa nhà chọc trời New York... Nhưng chẳng mấy chốc tiếng gọi từ vô thức bỗng vọng về khiến người xem tranh sực nhớ ra nỗi buồn vẫn nằm sâu trong tiềm thức”. Tất nhiên là mỗi người có cái cảm nhận khác nhau, những gì anh phân tích chỉ là gợi ý cho những ai vốn không phải là người am hiểu nghệ thuật. Tôi cũng vậy, một kẻ mù trong nghệ thuật, nhiều khi yêu thích là vậy nhưng đứng trước một bức tranh trừu tượng, lập thể, siêu hình… thì chịu chết, chẳng biết gì, chẳng hiểu gì, chẳng thấy điều họa sĩ gởi gắm trong ấy. Rồi khi anh xem tác phẩm “Cổng vườn xưa” của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần, anh đã chỉ ra cách bố cục, phối màu và những ẩn ý trong tranh. Anh nhận xét: “Bức họa được phân bố hài hòa, tinh tế, bố cục không gian cân xứng chuẩn mực, màu sắc xướng họa nhịp nhàng...” Đọc những phân tích của anh tôi cũng chút ít nhìn ra được cái đẹp của bức họa.  Người ta thường bảo “Người Hà Nội tinh tế” và bây giờ thì tôi thấy chất tinh tế rất Hà Nội ở anh Trịnh Y Thư.
    Đọc xong hai quyển sách anh tặng, tôi ngẩn ngơ và thấy ngợp trước một con người quá giỏi và đa năng, mặt nào cũng xuất sắc. Anh lại là người khá thâm trầm dí dỏm. Tôi cũng cảm nhận anh không thích “thể hiện” mình nơi ồn ào đông đảo, có lẽ anh rất tự tại khi ở một mình trong căn phòng với cây guitar hay với cây bút. Tôi vốn là người lớp sau, chỉ vì yêu thích văn chương nên võ vẽ viết nhì nhằng chẳng ra gì. Những dòng chữ cảm nhận này là thật từ tâm ý, là sự khâm phục của bản thân. Văn học nghệ thuật hải ngoại vốn có nhiều nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… nhưng thiếu những nhà phê bình văn học, thiếu người thẩm định và điểm sách… Anh Trịnh Y Thư mà một trong số những người hiếm hoi vậy.
    Nhờ đọc những nhận định và phê bình của anh Trịnh Y Thư mà tôi hiểu hơn một chút về những tác phẩm-tác giả ở trong hai quyển “Theo dấu thư hương” và “ Chỉ là đồ chơi”. Nói theo kiểu nữ văn sĩ Virginia Woolf là nhờ những nhận định phê bình của anh đã dắt độc giả vào những cung bậc mới trong tác phẩm mà khi chúng ta đọc hời hợt đã không nhận ra. Dĩ nhiên là khi tôi đọc sách tôi có quan điểm riêng của tôi, không phải tất cả những nhận định và phê bình của anh làm cho tôi hài lòng.
    Điểm thứ ba tôi cảm nhận sau khi đọc xong hai quyển sách “Theo dấu thư hương” và “Chỉ là đồ chơi” là trình độ dịch thuật của anh Trịnh Y Thư rất xuất sắc, một dịch giả tài năng và tài hoa. Trình độ Anh ngữ chuẩn, kiến thức phong phú, cái nhìn sâu sắc. Anh là một dịch giả uy tín và hàng đầu hiện nay. Tôi khâm phục anh, một bậc đàn anh, bậc thầy trong làng văn chương chữ nghĩa không chỉ hải ngoại mà bao hàm cả quốc nội. Tiếng tăm và uy tín đã được nhiều nhà xuất bản tin tưởng mời cộng tác. Đây cũng là ấn chứng cho trình độ, năng lực của anh, một nhà văn, một nhà thơ, một nhà phê bình văn học, một dịch giả xuất sắc.


– Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 02/2024
                                                                                                                                                                                         

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lịch sử Phật Giáo thế giới hơn hai mươi lăm thế kỷ qua không thiếu những câu chuyện có sức thu hút đặc biệt về những đấng minh quân đem Chánh Pháp của đức Phật ra để trị quốc. Chẳng hạn, Vua A-dục (Aśoka – 304-232 BC) ở Ấn Độ, Vua Lương Võ Đế (464-549) ở Trung Hoa, Vua Songtsän Gampo (thế kỷ thứ 7 Tây lịch) ở Tây Tạng, Thánh Đức Thái Tử (574-622) ở Nhật Bản, Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) ở Việt Nam, v.v…
“Chân dung” do Ngô Thế Vinh vẽ ra không giống các chân dung của các tác giả khác. Đặc biệt là với các cây viết đã khuất núi, anh phân tích chi tiết căn bệnh đưa tới sự ra đi của các bạn này. Như bệnh ung thư cột sống sarcoma của Nguyễn Xuân Hoàng, ung thư gan của Nguyễn Mộng Giác, ung thư mắt của Cao Xuân Huy, ung thư tụy tạng của Nghiêu Đề, ung thư tuyến tiền liệt của Đinh Cường. Những chi tiết này sẽ là những tài liệu quý báu cho văn học sử sau này.
Tập “Thơ Khánh Trường” ra đời chỉ để “Vui thôi mà”, gồm ba phần: Phần 1: Ngẫu Hứng. Phần 2: Mai Anh Về Miền Trung & Những Bài Thơ Khác; và Phần 3: Khổ Lụy. Ngẫu Hứng là phần tôi thích nhất, tập hợp những bài thơ ngắn “bất chợt nẩy ra trong đầu”. Thơ được viết tự nhiên, không màu mè, không cơ bắp, không gồng, không làm dáng. Là phần mở đầu, Ngẫu Hứng cũng là phần tách riêng khỏi tập thơ, ở một vùng đất cao hơn, trên một khí hậu tươi mát, có nhịp sống tâm linh riêng. Trong khuôn khổ bài này xin chỉ đọc phần “Ngẫu Hứng”.
Lịch sử không mắc kẹt trong Nguyễn Thanh Việt, tác giả cuốn tiểu thuyết The Sympathizer (Cảm tình viên, Kẻ hai mặt, Kẻ nằm vùng, Kẻ nội tuyến) xuất bản năm 2015, nó bùng nổ dữ dội với nỗi phẫn nộ rát bỏng hiếm thấy trên một trang viết văn học nào...
Alexander Solzhenitsyn sau 8 năm lao tù (1945-1953) trong chế độ Cộng Sản Liên Xô đã ghi lại hình ảnh kinh hoàng, đau thương đó trong các tác phẩm The First Circle (Tầng Đầu Địa Ngục), One Day in The Life of Ivan Denitsovich (Một Ngày Trong Đời Của Ivan Denitsovich), Khu Ung Thư (Cancer Ward), Tầng Đầu Địa Ngục (The First Circle), Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago)… Những tác phẩm này đã được dịch sang Việt ngữ, ấn hành trước năm 1975 ở Sài Gòn...
Hồi ký "Người muôn năm cũ" của nhà văn Phạm Gia Đại dày trên 500 trang gồm có 17 chương, mỗi chương với vẻ riêng, đặc sắc của từng chương. Cuốn sách đưa chúng ta trở về những năm tháng tươi đẹp đầy kỷ niệm thương yêu của Sài Gòn, của miền Nam và những ký ức đau buồn sau ngày mất miền Nam, và những năm tháng sống trở lại với cuộc đời mới trên miền đất tạm dung...
Tuyển tập Những Mẩu Chuyện Đời của Đào Ngọc Phong là những dòng chữ phần lớn rất buồn, kể lại chuyện đời của anh, chuyện đời của những người anh gặp trong đời từ Việt Nam cho tới xứ người, chuyện của những người trong thế hệ của anh bị cuốn vào cuộc chiến phân đôi, chuyện của những người xa xứ đang ra sức mưu sinh, và chuyện vui buồn của một kiếp người. Chuyện rất buồn xen lẫn với chuyện rất vui. Và hầu hết là giữa những dòng chữ vẫn có các niềm vui có hậu.
Chủ Nhật (2PM-5PM), 24 tháng 3 năm 2024, GS Trần Gia Phụng từ Canada sang thuyết trình “Những Học Thuyết Chính Trị Hoa Kỳ Về Chiến Tranh Việt Nam” tại Viện Việt Học, 15355 Brookhurst St, Suite 222, thành phố Westminster và tham dự Giỗ Lễ Nhà Cách Mạng Phan Chu Trinh Lần Thứ 98 cùng ngày của Hội Ái Hữu Phan Chu Trinh Đà Nẵng (ông là giáo sư dạy sử của trường nầy)...
Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc vừa ấn hành tác phẩm “9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương” – nội dung là viết về Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên. Cuốn sách dày 440 trang, chữ nhỏ, gồm các nhận định của Bùi Vĩnh Phúc (BVP) về các nhà văn, nhà thơ đã nuôi lớn một thời tuổi trẻ của tôi. Họ là những cây đa bóng mát của tôi, không chỉ ngoài đời và trong văn học, mà cũng là cả trong các giấc mơ những ngày tôi còn ôm sách tới trường. Tôi đã nói với Bùi Vĩnh Phúc như thế, rằng những người này, trong sách của bạn, thiệt sự là cả một cánh đồng tuổi thơ của tôi. Và tôi nghĩ rằng không thể nào viết đầy đủ về các khuôn mặt văn học này.
Xưa nay, mọi cuốn tiểu thuyết đều được xây dựng quanh một chủ đề. Dù trừu tượng hay cụ thể, từ chủ đề “mẹ” rẽ ra những nhánh chủ đề “con” - tất cả bám chặt vào một (hay hơn một) nhân vật, đan xen giữa những tình tiết, nối thắt những mẩu chuyện, từ đó phần hồn cuốn tiểu thuyết xuất hiện, tồn tại giữa những trang giấy, hóa kiếp thành suy tư của người đọc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.