Hôm nay,  

Sài Gòn cà phê, cà phê Sài Gòn

09/01/202320:51:00(Xem: 2740)
Tùy bút

QUÁN CÀ PHÊ  LA PAGODA
Café La Pagode, Sài Gòn năm xưa.

Cũng quán nhỏ, nhạc buồn, réo rắt làm rung động tâm hồn người viễn xứ, tha hương. Bên ly cà phê đen, nhỏ giọt từ cái “phin” Inox cầu kỳ, sang trọng. Bất chợt nhớ những câu thơ Bùi Giáng: “Cà phê vô tận mưa nguồn/ Thành thân vô lượng vui buồn gọi nhau...” và “Cà phê nhớ buổi hôm nay/ Chén trà xin hẹn ngày rày năm sau”. Lòng bỗng nôn nao nhớ... một góc phố Sài Gòn, một quán cà phê quen thuộc, để hú gọi bạn bè, cùng ngồi ôn lại kỷ niệm của thời xa xưa, xa lăng lắc...

 

Cà phê Sài Gòn, Sài Gòn cà phê, không biết bắt đầu có từ khi nào? Khi những người Hoa lánh nạn Mãn Thanh, trôi giạt đến Sài Gòn với cái vợt và cái siêu sành pha cà phê. Hoặc từ bước đường viễn chinh của những người lính Phú Lang Sa, khi vào xâm lược xứ Nam kỳ và chiếm đóng Sài Gòn? Dường như chưa có sách báo nào phân định rõ ràng cụ thể. Chỉ biết Sài Gòn bắt đầu có những quán cà phê từ rất lâu rồi. Khi mà người ghiền cà phê, đàn ông cũng như đàn bà, mới sáng sớm đã tìm ra quán, ngồi co hai chân trên ghế theo kiểu “nước lụt”, vừa xì xụp, húp từng miếng cà phê nóng hổi đựng trên một cái dĩa nhỏ, vừa râm ran nói chuyện, bàn tính công việc làm ăn trong ngày, hay ngồi nhả từng ngụm khói thuốc lá, ngẫm ngợi chuyện đời, chuyện thế sự buồn vui.

 

Miền Nam nói chung, Sài Gòn nói riêng, thuở ấy, cũng đã có nhiều quán cà phê, nhưng phần lớn tập trung ở cạnh chợ búa, hoặc những khu ngã tư, ngã năm, đông đúc người qua lại, chưa tràn lan khắp hang cùng, ngõ hẻm như bây giờ. Quán sang trọng, ở phố xá, phần nhiều do người Pháp hoặc người ngoại quốc làm chủ. Còn những quán rẻ tiền, bình dân, đa phần do người Hoa làm chủ, một số ít là của người Việt. Quán lúc đầu cũng ít có nhạc, vì trong thập niên những năm 30, 40 của thế kỷ trước, radio, máy nhạc quay đĩa mới bắt đầu có và cũng rất mắc tiền, phải đến sau này, radio cùng máy cassette thâu, phát âm nhạc, thịnh hành, thì hầu như quán, tiệm cà phê nào cũng trang bị, để phát cho khách đến nghe.

 

Lúc ban đầu mới uống cà phê, khách uống chủ yếu là thành phần công chức, binh lính và những người lao động bình dân, phải thức khuya, dậy sớm. Cần có ly cà phê để tỉnh táo làm việc, dần dần lan đến các học sinh, sinh viên, phải thức khuya để học thi hay ôn luyện. Thành phần “nam thanh nữ tú” cần có ly cà phê để... tỏ tình, hay tâm sự, chưa thấy có vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Bởi lẽ, ngoại trừ các quán cà phê sang trọng của người ngoại quốc, ở gần các khu phố, hay khách sạn lớn, thì phần đông các quán cà phê, ở gần quán chợ, khung cảnh chật chội, bề bộn. Cà phê lúc ấy, chủ yếu là cà phê “vợt”, hay còn gọi là cà phê “vớ”, cà phê “tất”, hay được pha sẵn, ủ ấm trong các cái siêu, giống như siêu thuốc Bắc, nhiều người thường gọi là “cà phê kho”, và để uống cà phê nóng, người ta đổ cà phê vào những cái dĩa nhỏ và húp từng ngụm nhỏ. Cà phê gồm: Cà phê đen hay còn gọi là “xây chừng”, cà phê đen lớn là “Tài chừng”, cà phê sữa nhỏ là “Xây nại”, lớn là “Tài nại” hay “bạc xỉu” là sữa nhiều hơn cà phê, theo cách gọi của các quán người Hoa, phần đông uống nóng. Ai thích lạnh thì bỏ thêm đá, gọi là cà phê đá hay cà phê sữa đá. Cà phê thuở ấy, vốn cũng là những hạt cà phê Moka, Arabica, Robusta... thường được người Pháp mang vào Việt Nam, hay nhập từ Brazil hay từ các nước thuộc địa khác, và được phân thành từng loại hảo hạng, hạng nhất, nhì... khác nhau, được rang và pha chế theo những kinh nghiệm của từng chủ quán cà phê, để hạ giá thành, người ta còn trộn thêm nhiều “phụ gia” khác, kể cả đậu nành, bắp rang, hay... cơm cháy (?). Và thường bán ở các quán bình dân kể cả của người Hoa, hay người Việt. Người uống lâu ngày cũng thấy quen và nghiện, kể cũng lạ?

 

Đến đầu những năm 1960, Sài Gòn ngày càng mở rộng và phát triển và là trung tâm, đầu mối giao lưu của miền Nam lúc bấy giờ, những đồn điền cà phê, do người Pháp lập ra ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, Cao nguyên Trung phần, đặc biệt là Ban Mê Thuột cũng đã mở rộng, và cung cấp một số lượng lớn cà phê ngon, rẻ, các quán cà phê đã dần dần có mặt ở khắp nơi. Nơi nào có khu dân cư, thì nơi đó có quán cà phê, cho dù là mặt tiền đường lớn, hay trong hẻm chật, người đông. Điều mà người Sài Gòn bắt đầu quan tâm là “chất lượng” cà phê ở đó, bên cạnh là khung cảnh và cung cách phục vụ của quán. Cà phê lúc này đã được nâng lên thành  “mốt thưởng thức” sau những giây phút học tập hay làm việc mỏi mệt, căng thẳng, không phải chỉ để chống buồn ngủ như trước đây nữa. Và một điều quen thuộc nữa, là uống cà phê, phải hú gọi những bạn bè thân thuộc, cùng gu để ngồi “tám chuyện” hay kể cả đãi khách, bàn tính chuyện làm ăn. Ly cà phê đã trở thành “đầu câu chuyện”!

 

Bên cạnh những quán cà phê chất lượng, pha chế hạp ý với gu của khách và cũng có mặt lâu đời nhất ở Sài Gòn, phải kể đến như quán “Cheo Leo Cafe”, nằm tuốt sâu trong hẻm 109 Nguyễn Thiện Thuật, quận 3 Sài Gòn, có mặt gần 90 năm nay, nhưng lúc nào cũng đông khách đến thưởng thức ly cà phê đen đậm đà hương vị, cũng trên con đường tương đối ngắn này, còn có quán “Cà Phê Năm Dưỡng”, nơi chuyên pha chế ly cà phê sữa đá “hút hồn” người. Hay như ở Phú Nhuận, “cà phê vợt” nổi tiếng nằm trên con đường Phan Đình Phùng. Còn ở Tân Phước, Chợ Lớn thì có quán “Cà Phê Chú Thanh”, bình dân, nhưng cũng rất được nhiều người tìm đến. Để tồn tại và phát triển, cũng là cách thức cạnh tranh, trong một thị trường sôi động, đầy tiềm năng của một đô thành lớn nhất miền Nam, nhiều quán cà phê sắp đặt một không gian riêng trữ tình để thu hút tầng lớp “nam thanh, nữ tú” của Sài Gòn, gồm cây cảnh, và không quên trang bị những máy phát nhạc tân tiến thời bấy giờ như Akai của Nhật, để phát nhạc theo yêu cầu của khách. Có nơi còn trang bị hẳn một giàn nhạc sống, mời cả những ca sĩ nổi tiếng đến hát. Quán cà phê, còn thêm những thức uống giải khát thời thượng của lớp trẻ bấy giờ như Ya-ua, Coca và rượu nhẹ để khách không ghiền cà phê uống, như quán “Cafe Thằng Bờm” nằm ở góc đường Nguyễn Thái Học, Phạm Ngũ Lão, quán cà phê “Hầm Gió’ trên đường Võ Tánh, nơi ca sĩ Thanh Lan, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thường xuyên xuất hiện hay quán “Cây Tre” của ca sĩ Khánh Ly...

 

Song con đường Catinat/ Tự Do, nay là đường Đồng Khởi, mới là nơi tập trung nhiều quán cà phê “sang trọng” nhất Sài Gòn thuở ấy, với hàng loạt quán cà phê đã trở thành “huyền thoại” trong tâm trí người Sài Gòn xưa như các quán Continental, Brodard, Imperial, Givral, La Pagode... Quán qui tụ những bậc trung lưu, hay công chức cao cấp, người ngoại quốc, đặc biệt giới nhà báo của Sài Gòn và quốc tế cùng anh em văn nghệ sĩ nổi tiếng, cụ thể là quán La Pagode, hay còn gọi là quán “Cái Chùa”, chủ yếu tập trung những phóng viên ký giả của các báo Sài Gòn và nước ngoài. Những văn nghệ sĩ danh tiếng thời bấy giờ cũng thường đến đây như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Du Tử Lê, Duyên Anh, v.v... Họ đến đây, để đọc báo, trao đổi tin tức, thậm chí... “ngồi đồng” để viết bài hay sáng tác, cùng với ly cà phê ưng ý, có khi là ly Whisky hay ly bia sủi bọt.

 

Phải chăng, cà phê, cùng những quán cà phê ở Sài Gòn, đã làm nên một phong cách và văn hóa của người Sài Gòn trước đây: Hào hoa, phóng khoáng, và cũng rất văn nghệ trong việc làm và cả cách sống của một thời, dù có lúc, đêm đêm, những ánh hỏa châu vẫn còn rực sáng đâu đó ở vùng ngoại thành xôi đậu.

 

Sài Gòn cà phê, cà phê Sài Gòn hình như mỗi ngày, mỗi tăng dần các quán cà phê, theo tốc độ dân số ngày càng đông và càng tăng ở Sài Gòn trong thời bình. Nhắc đến cà phê, là nhắc đến một chỗ ngồi quen thuộc, một không gian có thể ồn ã, có thể yên tĩnh riêng tư cùng với bạn bè, hay người thân thiết để mà tâm sự và nhớ...

 

Trần Hoàng Vy

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tim, mối tình đầu của Lily vừa chia tay, anh ta đã có người yêu khác. Lily đang thất tình đang đau khổ. Tim làm việc ngành tài chính ngân hàng, chàng trai có công việc tốt, đẹp trai, lịch sự đỏm dáng, luôn khéo ăn nói làm vừa lòng mọi người...
Như Ý đã trên bốn mươi, nhan sắc trung bình hay hơn trung bình một tí. Khuôn mặt trái soan, mái tóc dài, cao trên thước sáu đã níu lại được cái dáng đi hấp tấp, nhanh lẹ của cô.
Ở đất Sài Gòn, vào những đêm giao thừa xa xưa hầu như gia đình nào cũng bỏ lệ nhắc bọn trẻ đi ngủ sớm. Ở nhà tôi, trong khi mấy đứa em được tha hồ xem chương trình ti-vi đặc biệt chủ đề mừng năm mới, tôi được phụ mẹ tôi chuẩn bị mâm cúng đón giao thừa đúng 12 giờ khuya. Rồi khi mẹ tôi cùng mấy bà hàng xóm đi Lăng Ông Bà Chiểu, tôi cũng được tháp tùng.
Từ tờ mờ sáng, chúng tôi đã chuẩn bị xong và sẵn sàng cho cuộc đi chơi hôm nay. Mỗi người trong chúng tôi đều đeo trên vai một chiếc ba-lô nhỏ, trong đựng vài bộ quần áo đủ để thay đổi đôi ngày. Chúng tôi không quên sắp thêm chút ít thức ăn dọc đường, thêm vài ba chai “nước suối” nhỏ và ít trái cây trước khi ra khỏi nhà...
LTG: Viết chưa xong bài viết hàng tuần đã nhận tin nhà thơ Phan Xuân Sinh vừa qua đời ở Houston do bệnh tim mạch ngày 28 tháng 02 năm 2024. Thêm một người anh xứ Quảng ra đi. Cha sanh mẹ đẻ anh nguyên vẹn, nhưng chiến tranh đã lấy mất của anh một bên chân khi anh làm sĩ quan Thám báo bên bờ sông Thạch Hãn năm 1972. Anh không oán hận gì vì từ trong khói súng mịt mù của mùa hè đỏ lửa anh đã từng viết cho người lính Bắc phương, “Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu/ bày làm chi trò chơi xương máu/ để đôi bên thêm mầm mống hận thù/ ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu/ chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc…” Bây chừ thì anh đã có thể đi uống rượu thoải mái với những người anh em bên kia chiến tuyến cho thoả lòng anh không thích hận thù, tâm anh chỉ thấy anh em một nhà chém giết lẫn nhau làm đau lòng cha ông dựng nước… Chúc anh lên đường khoẻ nhẹ tâm linh sau cuộc đời nhiều uẩn khúc, thiệt thòi với chiến tranh và hoà bình trên quê hương chúng ta.
Khoảng chín giờ tối, tôi lặng lẽ rời trường đi về hướng giếng Cây Trâm như lời hướng dẫn. Đèn đường lưa thưa, nên đoạn đường tối lờ mờ không nhìn rõ mặt người. Đêm như lặng lẽ bắt đầu với vài cơn gió hanh hanh mùi rạ khô dọc ven đường...
Từ sáng sớm tinh mơ, chúng tôi đã thức dậy để chuẩn bị cho chuyến đi chơi chùa Hương hôm nay. Nhìn Thi, ở cái tuổi lăm, mười sáu trăng tròn tôi không thể không nhớ tới bài thơ “Chùa Hương”...
Cô Tư tôi (tên cô là Ngọc Quỳnh) dáng người thanh thoát, gương mặt sáng, đôi mắt đẹp, đài các. Năm nay bước qua tuổi thất thập nhưng vẫn khỏe mạnh nhanh nhẹn, dấu ấn thời gian vẫn chưa xóa hết nét xuân sắc một thời. Cô có một mối tình “thời xa vắng” thật lâm ly, và bi văn đát. Hôm nay giấu cô, tôi kể lén cho mọi người nghe chơi...
Sau cái ngày mắc dịch 30 tháng 04 năm 1975, tôi bị tống cổ khỏi trường trung học ở Sài gòn vì chạy giặc trước đó và khai hộ khẩu ở ngoại thành sau hoà bình nên phải về học ở ngoại thành. Đúng là trời bắt phong trần phải phong trần/ cho thanh cao mới được phần thanh cao… Mẹ tôi dụng câu Kiều để an ủi tôi hay chửi xéo: Mày ăn ở làm sao mà ra nông nỗi? Thôi thì ý trời biết đâu mà cãi, lòng mẹ bao la như biển Thái bình, chắc mẹ thương cảm mình đó! Nên từ đó tôi yên tâm được biết cây lúa, con trâu… và Thùy.
Từ ngày May về sống với anh. May và Ngạc là cặp đôi trùng phùng do dây tơ hồng nào đâu định liệu, kết lại thành keo dán với nhau. Ơ, có ai biết thời này là thời đại nào rồi, mà hai người tự thề non hẹn biển, kết nối, giao ước sống đời, mà chưa tỏ tường biết rõ mặt nhau. May giới thiệu mình qua điện thoại (thiệt hay giả cũng chẳng biết đâu mà mò). Em không đẹp, chỉ nhìn tàm tạm, bắt mắt với người này nhưng không bắt mắt với người kia. Em chỉ được nước da trắng thôi...
Tiếng hát khàn đục, nghẹn ngào của người ca sĩ da đen phát ra từ chiếc loa nhỏ, cũ kỷ tình cờ ở một góc đường thành phố New York. Họ là những ca sĩ đường phố, hát lang thang đây đó để bán những đĩa hát của mình...
Mẹ và hai chị em tôi đã chuẩn bị xong một bữa ăn ngon lành. Chiều nay nhà có khách. Gia đình bác Hải từ tiểu bang California đến Salt Lake City du lịch và sẽ ghé nhà tôi, mục đích chính là cho trưởng nam của hai bác là anh Nhân gặp Kim Thịnh chị tôi...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.