Hôm nay,  

Lính Mỹ Ăn Uống Ra Sao

01/07/202116:40:00(Xem: 5551)

                                                                 

blankblank

                     Lương khô lính Mỹ thời nay, không có thuốc hút. Hình internet.

blankblank

                   Lương khô lính Mỹ thời chiến tranh Việt Nam. Hình internet.

 

Quân đội nước Mỹ gồm cả lực lượng hiện dịch và dự bị khoảng một triệu quân và là lực lượng chiến đấu bảo vệ quốc gia. Để nuôi ăn một số lớn quân lính như vậy là một trong những quan tâm hàng đầu của Ngũ Giác Đài và không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Khi đóng quân trong nước hoặc ở các căn cứ hải ngoại, người lính được phục vụ những bữa ăn nóng hổi, ngon miệng mới có đủ sức khỏe mà làm việc. Khi phải đi hành quân xa, chiến đấu ngoài mặt trận thì họ phải đem theo lương khô gọn nhẹ nhưng đầy đủ dinh dưỡng và bảo đảm cho sức khỏe. 

Tôi là một nhân viên dân sự hay đi công tác xa nhà để hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị lính chiến Mỹ đóng đồn ở các nơi tiền tuyến xa xôi, nguy hiểm, và gian khổ như Iraq, Afghanistan, Châu Phi. Dĩ nhiên khi sống trong các trại lính, tôi cũng phải sống kỷ luật như lính và đương nhiên ăn, ngủ trong lều bạt cũng như lính. Không có một sự ưu đãi nào hơn lính. Hôm nay tôi kể bạn nghe về việc ăn và uống của họ khi được ăn những bữa ăn nóng hổi hoặc khi phải nhai lương khô, để bạn thấy được khi xa nhà, họ nhớ và thèm đến thế nào những bữa ăn bốc khói ngon lành của mẹ, của vợ nấu khi ngồi quây quần chung quanh bàn ăn gia đình dưới ánh đèn ấm áp tràn đầy tiếng cười vui.

Thuở xa xưa khi quân đội còn chiến đấu bằng vũ khí thô sơ như gươm giáo, cung nỏ, bất cứ đoàn quân nào, khi chinh chiến xa, chỉ có xe lừa, ngựa chuyên chở chậm chạp, người chỉ huy đều phải tính sao cho có đủ lương thực nuôi quân thì mới mong đánh thắng được kẻ thù. Mỗi người lính ngày xưa chỉ đem theo mình cao lắm là khoảng 10 ngày lương thực trong những cuộc hành quân dài hằng tháng trời, sau đó phải bắt buộc người dân vùng mình đi qua nộp lương thực hoặc cướp lấy bất cứ nông phẩm, gia súc nào có được của dân vùng đó cho lính mình. 

Tôi nhớ lúc còn nhỏ học lịch sử, khi đoàn khinh binh của vua Quang Trung tiến quân ra Bắc theo chiến thuật thần tốc, ngày đêm đi không nghỉ, 2 người gánh võng 1 người, cứ thay phiên nhau. Một số sử gia viết rằng lương khô của lính Tây Sơn là bánh tráng khô nhúng nước, hay một loại cốm khô vừa đi vừa ăn và uống nước cho nở ra nên lính vua Quang Trung tiến quân rất nhanh đánh tan quân triều đình miền Bắc làm họ trở tay không kịp. 

Ngày nay, ở bất cứ trại lính Mỹ nào cũng có nhà ăn được gọi là DFAC (phát âm là Đi Phác) do chữ “Dining Facility mà ra, hay tiếng lóng của lính hay xài với nhau là “Chow Hall”. Nhà ăn này do nhà thầu cung cấp và nấu nướng cho lính để họ có được những bữa ăn nóng sốt cho lính đỡ nhớ những bữa cơm gia đình; nhưng một điều chắc chắn là họ nấu không ngon như ở nhà, nếu không muốn nói là dở ẹc, ráng mà nuốt nếu không thì đói. May được nhà thầu có lương tâm thì đỡ, còn không thì cứ một hai món nấu riết, còn dư lại, họ sẽ xào đi nấu lại trộn với các món mới, sẽ thành ra một thực đơn khác, phải ráng mà ăn. Tuy vậy, họ vẫn phải bảo đảm có nhiều thực đơn khác nhau, đủ năng lượng, calories, vitamin theo yêu cầu.

Để có lời nhiều, nhà thầu mướn những tay phụ bếp không chuyên nghiệp hay người địa phương chưa bao giờ biết nấu ăn là gì. Những người này cả đời họ, chưa bao giờ ra khỏi quê hương, và may ra chỉ nấu nướng cho gia đình họ mà thôi. Nhà thầu chỉ mướn một người đầu bếp chính, chef cook, để coi sóc, quan sát và sai bảo phụ bếp. Như ở căn cứ tôi đang làm việc, mấy ông đầu bếp Ấn Độ nấu các món Mỹ, mấy “ông thần Chà Và” này món gì cũng cho thêm cà ri vô thực đơn khiến lính Mỹ ngửi mùi đã không muốn ăn. 

Là người Việt Nam đã từng sống trong “thiên đường Cộng Sản”, đã qua thời kỳ đói vàng cả mắt và qua mấy trại tù ở trong nước, nên tôi không kén ăn, bất cứ con gì nhúc nhích, ngo ngoe trên mặt đất là tôi có thể xơi tái ngay. Vậy mà mỗi khi ăn món cá nướng hay cá hấp, mấy ông đầu bếp không biết cách làm cho cá bớt tanh, khi ướp cứ cho bột cà ri; cá vẫn tanh và nhạt nhẽo như đang nhai rơm; vì thế lỡ ăn một lần, lần sau thấy lại món cá, tôi không dám ăn nữa.

Vì ở xa xôi nên thỉnh thoảng lương thực cung cấp bị trễ vì tình hình chiến sự hay vì phuơng tiện vận chuyển không thuận lợi, chúng tôi phải ăn lương khô một hai tuần lễ là chuyện thường. Tội nghiệp! Nhiều người lính ăn vài miếng rồi bỏ vì nó khô khan và chẳng có mùi vị gì nhiều. Tôi vẫn tỉnh bơ ngồi nhai lương khô một cách chậm rãi như đang ăn cơm gạo lức, để thức ăn tan nhuyễn thành bột loãng rồi nuốt xuống mà vẫn cảm nhận được mùi vị của thức ăn như đang ăn thực phẩm tươi. Tôi học cách nhai này khi còn ở trong tù để tận hưởng cái ít oi mà mình đang có.

Nước uống thì chúng tôi được cung cấp nước đóng chai được sản xuất bởi nhà thầu ngay trong trại lính đóng quân để ngừa việc bị đầu độc. Còn các thức uống có đường, gas khác như Coke, Pepsi, và đủ loại đủ cỡ thì không bao giờ thiếu. Lại có cà phê pha sẵn nóng hổi hay cà phê bột, instant coffee, và trà gói. Nói chung thì thức uống dư thừa, chỉ không được phép uống bia rượu mà thôi. Một vài căn cứ ở Phi Châu hay Á Châu cho phép chúng tôi mua rượu bia dễ dàng từ bên ngoài, miễn sao uống say đừng quậy phá.

Ngày còn nhỏ trong thời chiến Việt Nam, gia đình tôi sống trong khu gia binh nên đám con nít chúng tôi hay được những người lính Mỹ cho quà là những hộp lương khô mà họ được cung cấp; trong đó có gạo sấy, đậu phộng xay, bột pha nước cam, bánh crackers, kẹo chocolat và nhiều thứ bánh kẹo khác nhau. Gói thuốc điếu nhỏ và hộp diêm, chúng tôi cho lại những anh lớn để hút. Sao mà lương khô thời đó ngon lạ lùng. Chúng tôi thường chia đều cho nhau ăn chung, thật là vui.

Sau năm 1975, khi vào rừng làm rẫy, ông anh tôi đào được một số đồ hộp, lương khô lính Mỹ bỏ lại khi họ rời đi nơi khác. Hai anh em hì hục đào sâu thêm và đem về chòi được một ít lương khô đủ loại. Chúng tôi đục những lon đồ ăn, ngửi thử, vẫn thấy thơm, không chút do dự, anh em tôi đem về chòi và nấu được những bữa ăn ngon lành dù lon đồ ăn đã quá hạn nhiều năm mà hương vị vẫn còn thơm “điếc cả mũi”. Xong bữa, anh em tôi tráng miệng bằng bánh kẹo “đế quốc Mỹ”. Ôi cái hương vị đồ ăn của “bọn tư bản giãy chết” thật tuyệt vời làm sao trong khi cả “thiên đường” đang giãy dụa vì đói ăn! Tiếc rằng chúng tôi đã không đào được nhiều. 

Những ngày đi công tác khi lương thực tươi chưa đến kịp, phải ăn lương khô, tôi mới tò mò tìm hiểu lịch sử coi thực phẩm cho quân đội Mỹ được bắt đầu từ bao giờ và phát triển ra sao. Người lính ăn uống hợp vệ sinh và khỏe mạnh, không bị bệnh đường tiêu hóa thì họ mới có đủ năng lượng để chiến đấu. Xin ghi xuống đây để bạn đọc hiểu thêm một chút về lương thực người lính ăn uống ngoài trận mạc ra sao.

Khẩu phần lương thực của quân đội Mỹ được bắt đầu từ những ngày kháng chiến chống thực dân Anh để dành độc lập trong 8 năm từ tháng 4, 1775 cho đến tháng 9, 1783 (1). Khẩu phần chỉ gồm thịt bò, đậu, và cơm cho một người lính ăn một ngày ở ngoài mặt trận. Rồi qua trận Nội Chiến giữa miền Bắc và Nam, quân đội được cung cấp đồ ăn đóng hộp gồm thịt bò, heo, bánh mì, cà phê, đường và muối. Cả hai cuộc chiến này đều phải có một đội hỏa đầu quân là những người lính chuyên lo lương thực và nấu nướng đi theo đơn vị. 

Trong Thế Chiến thứ nhất, WWI, thịt hộp được thay thế bằng thịt khô hoặc thịt ướp muối để giàm bớt cân nặng cho người lính có thể mang được nhiều hơn và di chuyển nhẹ nhàng hơn. Đến Thế Chiến thứ hai, WWII, để tiết kiệm và thuận tiện cho việc di hành ở mặt trận, quân đội Mỹ mới bắt đầu được cung cấp lương khô trong những hộp giấy được gọi là C-Rations. Những hộp lương khô này cũng được dùng trong cuộc chiến Triều Tiên và cuộc chiến Việt Nam cho đội quân viễn chinh Mỹ và quân đội đồng minh ở địa phương.

Hiện nay, với kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, quân đội Mỹ có lương khô được gọi là MRE, Meals-Ready-to-Eat, gồm 24 loại món ăn khác nhau, bao gồm cả loại dành cho người ăn chay. Lương khô được sấy khô hoặc hút chân không (Vacuum) cho nhẹ ký để mang được nhiều và mùi vị dễ ăn hơn, mỗi bịch cân nặng khoảng 510-740 grams (18-26 oz) tùy theo thực đơn. Giá mỗi bịch MRE của quân đội là $7.25, nhưng nếu bán ra ngoài, có thể lên đến $30-$40 một bịch. Luật pháp không cho phép mua bán MRE ra ngoài dân chúng vì đây là tài sản quốc gia do tiền thuế người dân đóng góp. Amazon và một vài trang mạng khác có bán MRE, nhưng đây là hàng tồn kho, dư ra do quân đội bán đấu giá, theo giá bán sỉ, và bán theo từng bành lớn. 

Gói MRE có thể để lâu được 5 năm trong nhiệt độ trung bình 75F, còn nếu giữ ở nhiệt độ nóng như vùng Trung Đông, có thể để được 3 năm. Trên lý thuyết để bảo đảm phẩm chất và sức khỏe người lính là như thế, nhưng nếu bạn giữ 10 năm rồi lấy ra ăn cũng chẳng sao, miễn là bao bì không bị rách hoặc thủng như trường hợp kể trên của anh em tôi. Sau cuộc chiến Việt Nam, quân đội Mỹ đóng quân trong rừng, họ bỏ về nước năm 1972, khi đào lên, những hộp thịt không bị hư hại, những bịch bánh cracker không bị rách, chúng tôi ăn uống mà chẳng bị làm sao.

Mỗi bịch lương khô MRE phải bảo đảm có đủ năng lượng cho người lính chiến đấu: Từ 1200 calories cho một phần ăn; họ có loại đặc biệt cho các toán lực lượng đặc biệt mà mỗi phần ăn có thể lên đến 4200 calories một khẩu phần. Lực lượng này thường phải đi hành quân rất xa trong nhiều ngày, ngoài vũ khí, đạn dược, họ phải mang nhiều lương khô hơn nên trọng lượng mang theo càng nhẹ càng tốt, nhưng vẫn phải đầy đủ dinh dưỡng để họ có đủ sức chịu đựng gian khổ mà vẫn chiến đấu hữu hiệu.

Ngày trước, lương khô phải ăn nguội lạnh; ngày nay lương khô quân đội Mỹ có thể được hâm nóng mà không cần lửa hoặc nấu chín bằng nồi niêu hay gà mên. Trong gói lương khô, có một bịch nylon chứa một chất hóa học (coi hình 2, gói giữa hàng trên cùng, màu xanh nhạt), người lính chỉ cần cho một chút xíu nước lạnh và lắc qua lại cho đều, nó sẽ kích hoạt làm tăng sức nóng lên đến 94 C, gần độ đun sôi. Họ chỉ cần bỏ món ăn vào trong bịch rồi vất nó xuống một mặt phẳng như mặt đất cũng được, trong vòng 5-10 phút. Sức nóng sẽ hâm món ăn nóng như mới nấu xong. Gói này gọi là FRH, “Flameless Ration Heater”. Rất tiên lợi và giúp cho người lính ăn ngon miệng hơn, khi ngon miệng, họ sẽ ăn hết nguyên phần ăn và có thêm sức khỏe và năng lượng để tiếp tục hành quân.

Trong gói nhỏ (accessory package, hình 2 trên cùng bên phải) gồm đường muối cà phê, giấy lau miệng, còn kèm theo 1 hộp diêm nhỏ nhưng không có gói thuốc lá kèm theo. Đặc biệt có hai cục kẹo cao su nhai cho thơm và sạch miệng sau khi ăn. Bạn phải cẩn thận vì nếu 2 viên kẹo được gói trong giấy kiếng trong, cứ tự nhiên thoải mái nhai; nhưng nếu 2 viên kẹo được gói trong giấy kiếng trong, màu hồng đỏ, thì không nên, ngoại trừ bạn bị táo bón lâu ngày mới cần đến chúng. Mục đích dành cho lính đi trận mạc lâu ngày, chỉ ăn lương khô, khó cho việc tiêu hóa, sau khi nhai hai viên kẹo này thì có quyền kiếm chỗ mà chạy cho nhanh vì rất nhuận trường.

Trong chiến tranh, một trận chiến thần tốc, cần di hành nhanh, đến địa điểm sớm, đánh bất ngờ khiến địch trở tay không kịp thì lương khô là rất cần thiết khi không có phương tiện nấu nướng và thiếu thốn đồ ăn tươi. Người lính ăn lương khô sẽ chậm tiêu hóa sẽ giảm bớt thời gian không cần thiết, đơn vị sẽ linh hoạt hơn. Lúc đóng quân một nơi cố định, lính Mỹ không dùng lương khô mà luôn có những bữa ăn nóng hổi để giúp người lính phục hồi sức khỏe và ít bị các bệnh đường tiêu hóa. 

Nói chung cơm lính thì chẳng thế nào bằng cơm nhà, nhưng khi bạn còn trẻ, mới ăn xong thì một lúc sau có thể ăn thêm một bữa nữa thì cơm lính cũng không đến nỗi nào. Lính Mỹ là lính con nhà giàu nên thịt cá không thiếu và chẳng bao giờ phải đói khát, thiếu thốn như lính các nước nghèo. Cuộc chiến tranh nào cũng có gian khổ, chết chóc, nhưng muốn đánh thắng một cuộc chiến, ngoài vũ khí, phương tiện tối tân và binh lính tinh nhuệ; lực lượng tiếp liệu, hậu cần phải lo vấn đề lương thực đầy đủ cho người lính ngoài mặt trận. Ăn uống đầy đủ dưỡng chất và vitamin thì tinh thần người lính cũng nâng cao, sức chiến đấu bền bỉ hơn. 

Nguyễn Văn Tới. Tháng 6/2021. Viết từ Iraq.

REFERENCES:
https://en.wikipedia.org/wiki/American_Revolutionary_War

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.