Hôm nay,  

Trước trận Hoàng Sa (19-1-1974)

21/01/202200:00:00(Xem: 3183)
 
Hoang Sa Truong Xa hinh trang nhat
Trường Sa – Hoàng Sa. Nguồn: Sites.google.co 
 
LỜI NÓI ĐẦU:  Biến cố lịch sử hiện đại vào đầu năm dương lịch đáng ghi nhớ nhất với người Việt có lẽ là trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-01-1974, một trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt trong chiến tranh 1954-1975 trên đất nước chúng ta.  Nhân dịp tháng 01-2022, chúng tôi xin mời quý vị độc giả theo dõi những diễn biến chính trị “Trước trận Hoàng Sa”.
 
*
 
Hoàng Sa (Paracel Archipelago) là một quần đảo gồm khoảng trên 100 đảo nhỏ trên Thái Bình Dương (Biển Đông), giữa kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, và vĩ tuyến 15 đến 17 độ Bắc, ngang với vùng bờ biển từ tỉnh Quảng Trị đến tỉnh Quảng Ngãi.  Quần đảo nầy gồm hai nhóm:  Nhóm phía tây là Nguyệt Thiềm (hay Trăng Khuyết) (Crescent group) và nhóm phía đông bắc là An Vĩnh (Amphitrite group). 

Hình 1 trai
 
HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM
 
Trong lịch sử, nhiều tài liệu chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông thuộc chủ quyền nước Việt. Có thể trước hoặc trong thơi Hiên Vương Nguyễn Phúc Tần (cầm quyền  ở miền nam sông Gianh từ 1659-1687), chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa, nhiệm vụ ra vào hàng năm theo mùa gió, nhằm kiểm soát và khai thác tài nguyên ở quần đảo nầy
 
Từ thời nhà Nguyễn, hàng năm, triều đình gởi thuyền ra Hoàng Sa thăm dò rồi trở về.  Năm 1835 vua Minh Mạng sai thuyền chở gạch đá, đến xây đền trên đảo Bàn Than (thuộc Hoàng Sa), dựng bia để ghi dấu, gieo hạt trồng cây.  Khi đào móng đắp nền, xây đền, các lính thợ đã đào được 2,000 cân đồng và gang sắt. (Quốc sử quán nhà Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, quyển 8, tỉnh Quảng Ngãi, Phạm Trọng Điềm dịch, Huế: Nxb. Thuận Hóa, tập 2, 1997, tr. 322-323.)
Từ đó, theo mùa gió hàng năm triều đình nhà Nguyễn gởi thủy binh ra Hoàng Sa vào cuối tháng giêng (âm lịch) để thăm dò, bảo vệ, rồi trở về sáu tháng sau.  Dưới thời Pháp thuộc, Pháp bắt đầu đặt trạm quan thuế và tuần tra quần đảo từ năm 1920.  Sau đó Pháp lập trạm khí tượng năm 1933.  Trạm nầy thuộc quyền quản lý của sở Khí tượng ở Đà Nẵng.  Từ năm 1938, Pháp xây bia, dựng hải đăng và lập đội biên phòng bảo vệ Hoàng Sa.  Ngày 30-3-1938, vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945) ban đạo dụ tách Hoàng Sa khỏi liên tỉnh Nam Ngãi và nhập vào tỉnh Thừa Thiên.
 Hình 2 trai
 
Trước khi thế chiến thứ hai bùng nổ, ngày 31-3-1939, có thể do nhu cầu quân sự, chuẩn bị tiến xuống Đông Nam Á, Nhật đưa quân chiếm quần đảo Trường Sa (Spratlys), và sau đó vài ngày chiếm tiếp quần đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago). (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (tập A: 1939-1946), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 16.)  Khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Pháp tái kiểm soát các quần đảo trên Biển Đông.  Ngày 14-10-1950, Pháp chuyển giao Hoàng Sa cho Quốc Gia Việt Nam.  Thủ hiến Trung Việt là Phan Văn Giáo ra tận Hoàng Sa làm lễ tiếp nhận.  (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (tập B: 1947-1954), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 196.)
 
Nhân lúc Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Trung Hoa Dân Quốc gởi quân chiếm một số đảo trong quần đảo Hoàng Sa năm 1946, nhưng chính phủ Pháp phản đối. Năm 1949, lên cầm quyền ở Trung Hoa, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tiếp tục đòi hỏi:  “Chính quyền Quốc Dân Đảng đã nghiên cứu và xác định tên tiếng Trung Hoa và tiếng Anh cho toàn bộ các đảo, vỉa đá Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa vào tháng 12/1934 và tập hợp chúng lại thành bốn quần đảo lần đầu tiên.  Một bản đồ ấn hành vào tháng 4-1935 cho thấy chi tiết các đảo của Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa, đánh dấu mũi cực nam của biển phía nam Trung Hoa là Zengmu’ansha ở vĩ độ 4 độ  Bắc chí tuyến.  Một bản đồ khác, ấn hành tháng 2/1948 cho thấy, sự phân chia hành chính của Trung Hoa Dân Quốc.  Bản đồ còn cho thấy đường nối dài 11 điểm bao quanh bốn quần đảo với mũi cực nam ở Zengmu’ansha. Đây là bản đồ đầu tiên đánh dấu biên giới hình chữ U của Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa.  Các bản đồ ấn hành sau khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập [1949] đã giữ lại đường nối dài 11 điểm, và cho tới năm 1953, thì hai điểm đánh dấu Vịnh Bắc Việt bị xóa bỏ. Sau đó, tất cả bản đồ Trung Hoa đều theo đường nối dài chín điểm, hình chữ U.” (China Daily ngày 22-7-2011 trang 9.)
 
Trong khi đó, sau thất bại năm 1945, tại Hội nghị hòa bình San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 6-9-1951, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.  Đại diện Liên Xô là Andrei Gromyko cho rằng quần đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago) và các đảo khác về phía nam, được xem là lãnh thổ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), và yêu cầu hội nghị bổ sung vào hiệp định là các hải đảo đó thuộc chủ quyền của CHNDTH. Tuy nhiên, Gromyko không đưa ra được bằng chứng cụ thể nào chứng minh chủ quyền của CHNDTH đối với các đảo trên, nên hội nghị đã bác bỏ yêu cầu của Liên Xô. 
 
Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam lúc đó là Trần Văn Hữu xác nhận tại diễn đàn hội nghị nầy rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.  Không một nước nào lên tiếng phản đối.  (Vào Google, chữ khóa “Hội nghị hòa bình San Francisco năm 1951”.)
 
Hình-3-trai
 
Qua thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành “Luật và sắc lệnh” số 174 NV ngày 13-7-1961 đặt tên quần đảo Hoàng Sa là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, do một phái viên hành chánh đứng đầu.(Xin xem văn bản đính kèm.) Quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam có thể dựa vào vĩ độ của quần đảo Hoàng Sa tương đương với vĩ độ của tỉnh Quảng Nam và cũng có thể trạm khí tượng trên Hoàng Sa trực thuộc Sở Khí tượng Đà Nẵng.
 
Trong khi đó từ Cù Lao Ré (Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) ra tới đảo Tri Tôn (cực tây của Hoàng Sa) là 123 hải lý.  Ngày 21-10-1969, thủ tướng Trần Thiện Khiêm ký nghị định số 709-BNV/HĐCP sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
CỘNG SẢN VIỆT NAM TÁN THÀNH
BẢN TUYÊN BỐ NGÀY 4-9-1958 CỦA TRUNG CỘNG
 
Từ 24-2 đến 29-4-1958, Liên Hiệp Quốc (LHQ) tổ chức hội nghị tại Gènève để bàn về luật biển.  Các nước hội viên tham dự ký kết bốn quy ước về luật biển (United Nations Convention on Law of the Sea) (UNCLOS):  1) Quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp.  2) Quy ước về thềm lục địa.   3) Quy ước về hải phận quốc tế.  4) Quy ước về nghề đánh cá và bảo tồn tài nguyên sống ở hải phận quốc tế.  Riêng quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp, các nước tham dự có lập trường khác nhau về chiều rộng của hải phận, và không có lập trường nào hội đủ túc số 2/3 để thành luật.  (http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/8_1_1958_territorial_sea.pdf.)
 
Khi diễn ra hội nghị Genève về luật biển, CHNDTH chưa gia nhập LHQ nên chưa được tham dự hội nghị nầy.  Ngày 4-9-1958, CHNDTH đưa ra tuyên bố về lãnh hải, gồm có 4 điều theo đó điều 1 và điều 4 mặc nhiên khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về lãnh thổ CHNDTH và gọi theo tên Trung Hoa là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].
 
Điều 1 và điều 4 trong bản tuyên bố của CHNDTH được dịch như sau: Điều (1) “Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc”. Điều (4) “Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc...” (Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện.  (trích Internet).  Quần đảo Tây Sa (Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands.  Quần đảo Nam Sa (Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands.  Penghu = Bành Hồ.  Muốn tìm bản Anh ngữ, xin vào Google, tìm “Declaration of the Government of the Peoples’s Republic of the China on the Territorial Sea”.)
 
Cộng Hòa NDTH tự cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc CHNDTH, chỉ dựa vào bản đồ do chính quyền Tưởng Giới Thạch nghiên cứu và vẽ năm 1934. Chắc chắn, bản đồ nầy cũng có trong hồ sơ của Andrei Gro- myko tại hội nghị San Francisco năm 1951, nhưng hồ sơ nầy đã bị hội nghị bác bỏ vì thiếu bằng chứng lịch sử.  Ngoài ra, tuy từ đảo Hải Nam (CHNDTH) xuống tới Hoàng Sa là 140 hải lý, nhưng CHNDTH nói rằng từ đảo Hải Nam tới bãi đá ngầm (North Reef) của Hoàng Sa là 112 hải lý để chứng minh rằng quần đảo nầy gần CHNDTH hơn Việt Nam.  Tuy nhiên, bãi đá ngầm dưới mặt nước biển không phải là đảo nên cách lý luận trên không được quốc tế chấp nhận.  (Vũ Hữu San, Địa lý Biển Đông, Westminster: 2007, tt. 150-151.
 
Cộng Hòa NDTH đưa ra bản tuyên bố nhằm khẳng định chủ trương của CHNDTH mà không gởi riêng cho nước nào trên thế giới. Thế mà chỉ 10 ngày sau, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt Nam (BVN), với sự đồng ý của chủ tịch BVN là Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng Lao Động, một tổ chức không có trong hiến pháp, nhưng thực tế cầm quyển tối cao ở BVN, vội vàng ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của CHNDTH. 
 
Phần chính công hàm Phạm Văn Đồng viết như sau:  “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể.

Hình 4 trai
 
Tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của CHNDTH có nghĩa là đảng Lao Động tức đảng Cộng sản Việt Nam tán thành điều 1 và điều 4 của bản tuyên bố của CHNDTH, theo đó CHNDTH tự xác nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của CHNDTH, hoàn toàn ngược lại với sử sách xưa của Việt Nam về chủ quyền nước ta trên hai quần đảo nầy.
 
Đảng Lao Động tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của CHNDTH, là hành động ngoại giao nhằm trả ơn CHNDTH đã viện trợ cho VNDCCH từ năm 1950 đến 1954, và còn nhằm chuẩn bị xin CHNDTH tiếp tục viện trợ quân sự để VNDCCH tấn công VNCH tức Nam Việt Nam.  Cộng Hòa NDTH giải thích rằng điều đó mặc nhiên nhà nước VNDCCH thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của CHNDTH.
 
Tháng 10-1959, nghĩa là một năm sau công hàm, Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh cầu viện CHNDTH.  Tháng 11-1959, CHNDTH gởi một phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần thiết của BVN.  Tháng 5-1960, lãnh đạo BVN và CHNDTH hội họp liên tiếp nhiều lần ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận chiến lược tấn công NVN. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt. 82-83.)  Ngay sau đó, tại Hà Nội, đại hội III từ 5-9 đến 10-9-1960, đảng Lao Động đưa ra hai mục tiêu là xây dựng BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa và giải phóng NVN bằng võ lực, động binh tấn công VNCH.
TIỀM NĂNG HOÀNG SA
 
Cộng Hòa NDTH mạo nhận Hoàng Sa là của CHNDTH có thể vì các lẽ:  1)  CHNDTH muốn làm chủ vị trí chiến lược Hoàng Sa trên Biển Đông để tiến xuống Đông Nam Á và chế ngự thủy lộ từ eo biển Malacca, vòng lên phía bắc tại vùng nầy. 2) Lúc đó, Hoàng Sa thuộc VNCH, hoàn toàn đối địch với CHNDTH.  Ngược lại, nếu VNDCCH làm chủ Hoàng Sa, thì VNDCCH có thể sẽ giao Hoàng Sa cho Liên Xô, cũng là điều hoàn toàn bất lợi cho CHNDTH.  3)  Cộng Hòa NDTH muốn tìm kiếm tài nguyên dưới lòng Biển Đông trong khu vực nầy, khí đốt và dầu hỏa.
 
Nguyên vào ngày 1-12-1970, chính phủ VNCH ban hành luật số 11/70 về việc tìm kiếm, khai thác dầu hỏa cùng những điều kiện về thuế khóa, lệ phí và hối đoái liên hệ.  Sau đó, chính phủ ban hành sắc lệnh số 3-SL/KT ngày 7-1-1971 thiết lập tại Bộ Kinh tế một ủy ban mệnh danh là “Ủy ban quốc gia dầu hỏa.  Ủy ban QGDH phụ trách việc nghiên cứu vấn đề thềm lục địa (nghị định số 571-NĐ/KT ngày 2-6-1971). Cuối cùng nghị định số 249-BKT/VP/UBQGDH/NĐ ngày 9-6-1971 công bố ý định cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm và khai thác dầu hỏa. (Công báo VNCH 1970, tr. 8573; CBVNCH 1971, tr. 642; CBVNCH 1971, tr. 3848; CBVNCH 1971 tr. 3857.)
 
Năm 1972, công ty Geological Service Inc (GSI) nghiên cứu khu vực trung và nam Hoàng Sa.  Tháng 6-1973, hai tổ hợp Anh Pháp là Roberto Research International Limited và Bureau d'Études Insdustrielles et de Coopération de l'Institut Français du Pétrole (BEICPIP) phối hợp làm báo cáo “Địa chất và Khai thác hydrocarbon ở ngoài khơi Nam Việt Nam”. 
 
Lúc đó, VNCH bắt đầu tổ chức cho các công ty ngoại quốc đấu thầu.  Những công ty trúng thầu đã khoan nhiều giếng, và vào tháng 10-1973 cho biết tại thềm lục địa Việt Nam, tiềm năng dầu hỏa là có thật.  (Trịnh Quốc Thiên, Những biến cố mất lãnh thổ - lãnh hải Việt Nam từ năm 939 đến 2002, VA: Nam Quan Ấn Quán, 2002, tt. 163-167.
 
Việc phát hiện tiềm năng dầu hỏa dưới đáy Biển Đông càng làm cho vấn đề Hoàng Sa thêm gây cấn vì tranh chấp quyền lợi kinh tế.
 
KẾT LUẬN
 
Trong lịch sử. quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc Việt Nam, nhưng CHNDTH muốn bành trướng, tìm đường xuống Đông Nam Á và tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên dưới lòng Biển Đông, nên nhân cơ hội Liên Hiệp Quốc đưa ra luật biển tại hội nghị Genève từ 24-2 đến 29-4-1958, CHNDTH đưa ra tuyên bố ngày 4-91958, tự nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của CHNDTH.  Thế mà cộng sản Bắc Việt Nam lại tán thành bản tuyên bô trên đây của CHNDTH, tức mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo nầy là của CHNDTH.  Như thế, cộng sản Việt Nam không thể tránh khỏi tội phản quốc là tội bị lên án nặng nề nhứt trong lịch sử cổ kim đông tây. 
 
Khi cộng sản Băc Việt Nam kéo rốc quân xuống tấn công Nam Việt Nam, chiến tranh trở nên ác liệt, CHNDTH liền nhân cơ hội nầy, tấn công Hoàng Sa ngày 19-01-1974.  
 
Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ hải đảo do tiến nhân để lại, nhưng cuối cùng đành thất bại trước lực lượng đối phương rất hùng mạnh, đã chuẩn bị kỹ càng kế hoạch xâm lăng.  (Trích từ sách Chiến tranh 1954-1975, cùng tác giả, Nxb. Non Nước, Toronto, xuất bản 01-2022,)
 
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, CANADA)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nói rõ, tôi không phải là một nhà văn hay một nhà báo gì cả. Tôi chỉ là một “nhà gõ”. Tôi chỉ gõ laptop mà thôi. Tôi gõ chùa, không vì tiền (gõ chùa) nhưng gõ cho vui, để tự mình trau dồi thêm kiến thức, để tự học hỏi, để tự mình giải khuây, để khỏi nghĩ quẩn, để khỏi bị bệnh Alzeihmer, để thoát ly và cũng để giảm bớt stress trong cuộc sống, v.v...
Trong không khí gây gây lạnh của ngày cuối năm, người Việt tha hương ở Nam Cali vẫn có những ngày nắng ấm hanh vàng làm tươi hồng đôi má các cô thiếu nữ đương xuân. Đèn hoa lễ hội được trang hoàng khắp nơi chào đón ngày Chúa chào đời.
Tôi gọi cha tôi là cha. Không là bố, là ba, là tía, là thầy, hay là cậu. Tôi gọi mẹ tôi là mẹ, không là má, là mạ, là măng, hay là u. Tôi “quê một cục” vì tôi sinh ra và lớn lên ở một miền quê khô cằn. Sau này tôi thấy từ “cha” sao thân thương quá, vừa nhẹ nhàng vừa âu yếm, vừa thật thà lại vừa thiết tha.
-Bữa qua có chuyện ngộ lắm. Cái bàn cầu nhà tui cứ xục xịch hoài. Cái này có từ hồi mua nhà 10 năm trước, chứng tỏ hai con ốc nó cũ tới mức nào mới lỏng le vậy.
Nghe người ta nói: Người đẹp không cần son phấn, có đúng không chị?. Em thì lúc nào cũng cần son phấn, có ngược đời không chị nhỉ?
Màu tóc tự nhiên của người Á Đông là màu đen. Màu tóc đen mướt, mịn màng rất đẹp. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng nên làm cho màu tóc đen thêm phần tươi sáng nhờ vài nhiên liệu thường có sẵn trong nhà bếp, hoặc mua với giá khá rẻ ở chợ thực phẩm.
Nếu một người chủ thuê nhân viên có sự đối xử phân biệt, hoặc trả thù (ví dụ: người chủ sa thải một nhân viên bởi vì nhân viên đó đã hỏi anh ta tại sao họ không được trả tiền lương tối thiểu, hoặc bởi vì nhân viên đó nộp đơn, hoặc đe dọa nộp đơn yêu cầu tới bộ lao động), nhân viên đó có thể khiếu nại sự đối xử/ phân biệt/ trả thù tới văn phòng bộ lao động.
Chút ngỗ ngáo tom-boy. Màu sắc mùa thu hài hòa với tông nâu vàng đen, áo choàng dài, giày thể thao, đế thấp và bằng, thích hợp với những người có vóc dáng cao thon.
Bộ Nội An và Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ vừa loan báo những kế họach nhằm đưa ra khá nhiều điều lệ mới về di trú trong vài tháng sắp tới. Những quy luật này sẽ áp dụng cho những du khách xin chiếu khán công việc B-1, sinh viên du học với chiếu khán F1, những người chuyên nghiệp xin chiếu khán làm việc H1B và chiếu H4 dành cho người phối ngẫu của họ, và chiếu khán L-1.
Tin tức về việc Hạ Viện với đại đa số dân biểu Dân Chủ đã chính thức bỏ phiếu thông qua 2 điều khoản luận tội Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm 18 tháng 12 đã gây sự chú ý đặc biệt trên khắp thế giới.
Đại Sứ Trung Quốc tại Thụy Điển là ông Quế Tòng Hữu đã bị các Nghị Sĩ Thụy Điển đòi trục xuất vì ông này đã nhiều lần phát ngôn uy hiếm Thụy Điển vì Hội Nhà Văn Thụy Điển đã trao giải thưởng Tucholsky cho một nhà văn và nhà xuất bản người Thụy Điển gốc Hồng Kông
Tô Kiều Ngân tên thật Lê Mộng Ngân, ông sinh năm 1926 tại Huế. Từ nhỏ ông đã sớm tỏ ra có chất nghệ sĩ, thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tọa lạc tại 1538 N. Century Blvd, Santa Ana, CA 92703, được hình thành vào năm 1975, với một số người Công Giáo tỵ nạn tại Orange County, với lúc đầu chỉ chừng 3,000, nhưng tới năm 1982 con số nầy đã tăng lên tới 7,000. Tuy đã có Thánh Lễ bằng tiếng Việt tại 9 nhà thờ của giáo xứ, nhưng họ vẫn thấy cần một nơi để sinh hoạt theo phong tục của người Việt.
Bị nước Tàu đô hộ ngàn năm, Việt Nam không bị đồng hóa mà vẫn giữ được truyền thống dân tộc. Tiếng nói, chữ viết, cách ăn mặc, tập tục, phong thái...và nói chung, mọi thứ đều là Việt Nam. Chuyện đó ai cũng biết.
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ngày 18 tháng 11 năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.