Đối với trẻ con, uống trà là một khái niệm mơ hồ. Tôi cũng vậy, vì mẹ tôi không uống trà. Mẹ thường pha cho cha một tách trà vào buổi sáng. Cha thong thả nhấp nháy đôi mắt trong làn khói tỏa ra từ tách trà, sau đó chậm rãi nhắp từng ngụm. Trong trí nhớ tuổi thơ của tôi, trà chỉ là thế!
Sau khi cha mất, mẹ vẫn pha một tách trà nóng để trên bàn thờ ông mỗi sáng. Đến khi trà nguội lạnh, mẹ đem xuống cho thêm nước sôi vào rồi uống. Mẹ không thích trà, hay sợ mất ngủ? Tôi chỉ đoán thôi chứ chưa từng hỏi mẹ, mà tôi cũng quên luôn hỏi lý do tại sao theo thời gian mấy mươi năm sau.
Người ta nói “đi một ngày đàng học một sàng khôn” rất đúng! Tôi đã học được “một sàng khôn” từ ba năm đệ nhị cấp trên Bảo Lộc. Ở đây, tôi tận mắt nhìn thấy những đồi trà xanh thẳng tắp; thấy người ta hái trà, bỏ vào cái gùi đeo trên lưng. Tôi cũng đã biết cách người ta phân loại trà từ lá ngọn, rồi những lá kế tiếp để chế biến trà loại một, hay loại hai, ba. Nhà dân trong vùng có vườn lớn hay nhỏ đều thường trồng vài cây trà, mấy cây hoa lài, và bụi hoa sói. Tôi rất thích đi dạo qua những khu vườn xanh mướt thoảng hương thơm từ những khóm hoa Lài, hoa Sói trắng đẹp giản dị và thuần khiết mà Sài Gòn không có.
Những dịp nghỉ Tết và nghỉ Hè, tôi thường ghé tiệm trà Đỗ Hữu bên kia đường đối diện cổng trường, mua cho mẹ hai hộp trà Lài và trà Sói. Mẹ vẫn không hay uống trà, nhưng mẹ thích trà ướp Lài. Riêng tôi thì thích trà ướp Sói, cũng chỉ do hương thơm lạ lạ của nó chứ chưa uống thử.
Lúc mẹ tôi qua đời, tôi bắt đầu tập nghi thức cúng trà mỗi sáng như mẹ ngày xưa, chỉ khác là có hai tách trà, một trà Sói và một trà Lài. Khi trà nguội, tôi cũng thêm ít nước nóng vào để uống, như một loại nước khác nước lọc chứ chưa biết thưởng thức mùi vị của trà. Nơi tôi làm việc có trà Lipton, đậm, không trong thơm như trà Bảo Lộc, nhưng uống hoài cũng quen vị.
Mỗi lần đi Huế, tôi đều về thăm quê ngoại Làng Chuồn. Mấy dì em của mẹ thường hái lá trà tươi từ vườn nấu nước uống, gọi là nước chè. Vườn nhà ôn mệ ngoại rộng, trồng đủ thứ: cau, trầu, chuối, mía v..v… có cả cái giếng đầy nước. Có lẽ nấu trà bằng nước giếng nên lá trà không cần phân loại, non già đều hái nấu chung, nhưng nước vẫn trong xanh và uống có vị ngọt. Thích nhất là sau nhiều giờ nhàn du thắng cảnh Cố Đô, ghé nhà mấy dì, được uống một ly chè xanh mới nấu thì theo tôi, ly nước chè tươi này mới đúng nghĩa “trà loại một”.
Trà túi lọc ở Mỹ dùng phổ biến hơn trà sấy khô Việt Nam vì cách pha chế nhanh gọn, không cầu kỳ. Có rất nhiều loại trà túi lọc khác nhau tùy lựa chọn theo sở thích, không phải chỉ có trà Lipton như tôi biết trước đây. Thử đủ các loại trà từ những lần du lịch trong và ngoài nước, kể cả trên máy bay; rốt cuộc tôi vẫn chung thủy với trà xanh. Càng lớn tuổi tôi càng thích uống trà. Buổi sáng đọc báo với một tách trà trên bàn, thêm một tách trà chiều là đủ cho một ngày làm việc.
Mùa Thu hai năm trước, cô em dâu tặng tôi một chậu hoa Lài nhỏ, để ngoài sân vài tháng, thời tiết chuyển lạnh phải đem vô nhà. Mùa Xuân, tôi đem cây ra sân, chuyển qua chậu lớn, tỉa cành, thay đất, tưới nước. Rồi những nụ hoa trắng nhỏ nở đón mùa Xuân đầu tiên, thơm ngát một góc sân. Cứ chăm sóc như vậy, mỗi năm được ngắm hoa Lài khoe sắc cùng Hồng, Lan, là đủ vui.
Những lần hoa Lài rụng, tôi thường gom bỏ vào chiếc ly để trên bàn làm việc cho đến khi khô vẫn thơm khắp căn phòng nhỏ. Năm nay, thay vì giữ hoa khô, tôi bỏ vào tách trà, thưởng thức làn hương thơm nhẹ cùng vị ngọt trà xanh. Người Nhật thật tinh tế trong việc uống trà, như cách gọi thanh lịch của họ, “Trà Đạo”. Uống trà là một nghệ thuật quả không sai,
Mấy hôm nay mưa nhiều vì trời sắp sang Thu. Lài vẫn chăm chỉ ra nụ và nở hoa vào những ngày nắng ít ỏi của cuối Hè còn sót lại. Nhưng những cánh hoa mỏng manh chỉ ở trên cành độ hai hoặc ba ngày, qua đêm mưa to là rụng hết. Chiếc ly nhỏ trên bàn làm việc đã đầy hoa!
Tôi pha hai tách trà hoa lài gửi hương thơm theo cha mẹ đã về chốn bình yên.
Hồ Thị Kim Trâm
Mùa Vu Lan 2021