Không riêng tại Hoa Kỳ, toàn thế giới đều đang thấy là các công ty tài trợ (cho vay để mua nhà hay mua cổ phiếu) đều tiết giảm tín dụng vì bị lỗ lã, mất nợ mất khách. Đấy là tình hình chung từ Mỹ qua Đức qua Úc, và nhiều công ty tài trợ đã phải khai báo phá sản, doanh gia điều khiển bị mất chức. Người ta nói đến tình trạng "hạn chế tín dụng", tức là cho vay ít đi, hoặc với lãi suất cao hơn. Đây là một nguyên nhân vì sao người ta mong rằng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ giảm lãi suất trong kỳ họp vừa qua của Ủy ban FOMC.
Tình hình ấy xảy ra trái ngược với một thời hoàng kim đã qua khi người ta vay tiền dễ với lãi suất rẻ và nhờ vậy, riêng trong thị trường gia cư, người ta (Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Đức, Anh, v.v...) mua nhà rất nhiều làm giá nhà cũng tăng rất mạnh.
Vì sao lại có sự đảo điên ấy"
Chúng ta phải trở ngược về hai chục năm trước khi vụ khủng hoảng tiết kiệm và tín dụng bùng nổ tại Mỹ, khiến các công ty Savings and Loan bị mất nở khoảng 400 tỷ vào thời Tổng thống Ronald Reagan. Kế tiếp là phản ứng của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ khi khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997 lan ra khắp nơi làm một quỹ đầu tư lớn của Mỹ b bị phá sản năm 1998. Ngay sau đó là vụ bong bóng đầu tư trên thị trường cổ phiếu "cao kỹ" (hi-tech) bị bể đầu năm 2000 gây ra suy trầm kinh tế Mỹ năm 2001, rồi bị nhồi thêm vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín năm 2001 và vụ hàng loạt doanh nghiệp phá sản cuối năm 2001 (vụ Enron và nhiều công ty khác).
Nói vắn tắt là trong một chục năm liền, thị trường có thăng (lên giá) có giáng (sụt giá) rất mạnh và cơ quan có trách nhiệm bảo đảm sự ổn định tiền tệ là ngân hàng trung ương Mỹ phải ứng phó.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Alan Greenspan, Hội đồng Dự trữ Liên bang Mỹ đã liên tục hạ lãi suất ngắn hạn từ hơn 6% vào đầu năm 2001 xuống 1% vào tháng Sáu năm 2003 (khi lạm phát chỉ có 1%, tức là lãi suất thực tế chỉ là số không). Mục đích là để kích thích tiêu thụ, kích thích số cầu, hầu tránh nạn suy thoái hay "giảm phát" - deflation (ngược với lạm phát, nghĩa là hàng không tăng mà giảm giá nhưng bán không chạy là sản xuất hạ, thất nghiệp tăng, là tình trạng đang xảy ra khi đó cho kinh tế Nhật Bản sau vụ bể bóng đầu tư năm 1990).
Nói vắn tắt lại là liều thuốc kích cầu để cứu nguy kinh tế là khiến cho tín dụng ngắn hạn trở thành rất rẻ. Lãi suất 1% được duy trì trong suốt một năm liền, ở mức thấp nhất kể từ gần nửa thế kỷ, từ thời Thế chiến II. Tiền được ào ạt bơm vào kinh tế khiến mọi người tiêu xài dễ dàng mà khỏi cần lo tiết kiệm. Tiền đó chảy vào khu vực tiêu thụ rồi gia cư rồi đầu tư sản xuất lẫn mua lại để sát nhập các doanh nghiệp (gọi là LBO, leveraged buy out)... Cho nên, dù bị khủng bố rồi chiến tranh ngay giữa chu kỳ suy trầm (từ tháng Ba đến tháng 11 năm 2001), kinh tế Mỹ vẫn hồi phục nhanh chính là nhờ biện pháp cắt lãi suất. Sau đó mới đến loạt giảm thuế của Chính quyền Bush.
Kinh tế Mỹ đã ra khỏi suy trầm rất ngắn (có chín tháng), nhưng sự hồi phục ban đầu vẫn chưa có phẩm chất cao vì doanh nghiệp còn ngần ngại tuyển vụng (gọi là jobless recovery). Mãi cho đến đầu năm 2003 mới thực sự bắt trớn tăng trưởng cao, đến giữa năm 2003, ngân hàng trung ương Mỹ mới coi như yên tâm là kinh tế hết bị nguy cơ giảm phát mà lạm phát lại có thể tăng. Kể từ tháng Sáu năm 2003, Ủy ban FOMC đã 17 lần tăng lãi suất, mỗi lần 25 điểm, từ 1% lên 5,25% như ngày nay (trung bình, cứ sáu tuần Ủy ban này lại họp một lần để quyết định về lãi suất). Nhưng dù lãi suất ngắn hạn tăng đều, kinh tế Mỹ vẫn tăng trưởng mạnh hơn và lạm phát không có gì đáng ngại. Trong khi trái bóng địa ốc cứ căng phồng, người ta không chỉ mua nhà để ở mà mua nhà để bán lại kiếm lời. Mà dù lãi suất ngắn hạn đã tăng 17 lần thêm 425 điểm (4,25%) lãi suất địa ốc lại không tăng mạnh như thời 1990-1991 và tiền vay để mua nhà kể ra vẫn còn rẻ.
Tình hình đó lên tới cao điểm và chuyển hướng là cuối năm 2005 (cũng là khi ông Greenspan về hưu vào tháng Tám sau 18 năm cầm đầu ngân hàng trung ương Mỹ). Từ đầu năm 2006, người ta mong rằng trái bóng địa ốc sẽ xì nhẹ, chứ không bể, giả thuyết gọi là hạ cánh an toàn, soft-landing. Quả nhiên, nó đã xì rất chậm suốt năm 2006 - nhà bán chậm hơn và giá hết tăng - và chỉ có triệu chứng đáng ngại hơn từ đầu năm nay, cho tới tháng Bảy vừa qua. Trong suốt giai đoạn gọi là giao thời hay chuyển hướng, người ta chưa thể nói là thị trường gia cư bị sụp đổ hay khủng hoảng hoặc bao giờ sẽ lại tăng.
Tình hình gọi là bất định này coi như đã hết. Phải chăng giải pháp tăng lãi suất thật chậm (để hạ nhiệt kinh tế và xì bóng đầu tư thật nhẹ) do ngân hàng trung ương đề ra từ thời Chủ tịch Greenspan và được Chủ tịch Ben Bernanke theo đuổi đã hết công hiệu"