Chuyện dài Hiệp ước Mậu dịch chưa có màn kết, nhưng nó cũng không thể kéo dài được lâu. Không hiểu trong bản thỏa hiệp về nguyên tắc còn có những điểm gì không rõ nên cần phải làm sáng tỏ" Và nếu nó không được rõ tại sao phía Việt Nam lại thò tay ký vào thỏa hiệp" Hai bên đã thương thuyết các nguyên tắc này trong 4 năm trời và Bộ trưởng Thương mại cầm đầu phái đoàn Việt Nam chắc chắn không phải tự ý ký mà phải có sự đồng ý của Thủ tướng chính phủ và ông Thủ tướng cũng không thể quyết định mà phải có sự chấp thuận của cả bộ Chính trị. Người ta nói phía Hà Nội không chịu “mỗi năm một lần có tối huệ quốc” mà muốn đòi một quy chế thường xuyên.
Chúng tôi nghĩ điểm “tối huệ quốc trường kỳ” này cũng không thể làm Hiệp ước Mậu dịch ngắc ngứ. Sở Hà Nội thấy nuốt không nổi là vì một điểm khác, có một tên gọi rất hiền lành là “môi trường kinh doanh” (business environment). Ở đây có một số từ ngữ thường bị lạm dụng hay hiểu theo một nghĩa giả tạo, chúng tôi muốn xác định lại cho đúng, nghĩa là làm sáng tỏ thêm khi chuyển ngữ. Các kinh tế gia có khi dùng đến chữ “climate” có nghĩa là bầu không khí, ý nói đến hoàn cảnh, điều kiện cần thiết như không khí thiên nhiên cần cho sự sống và từ đó người ta có thể suy diễn nó bao gồm cung cách đối xử với nhau cho lịch thiệp, hòa nhã, văn minh. Nhưng đó cũng chỉ là một phần của môi trường. Chúng tôi nghĩ đến việc dịch chữ environment là môi sinh. Ở đây không phải chỉ là môi trường thiên nhiên cần thiết cho sự sống của sinh vật, mà đúng hơn hết là môi trường nhân tạo cần thiết cho sự sống sủa kinh doanh. Và như vậy không phải chỉ cần thái độ cư xử bề ngoài như cung phụng đón tiếp, o bế nịnh bợ mà cốt lõi của nó là một loạt những cấu trúc về luật pháp, về cơ cấu và về hạ tầng cơ sở để doanh nghiệp có thể sống và phát triển được.
Chế độ cộng sản Việt Nam không thích tạo một môi trường kinh doanh như vậy vì sợ nó làm mất quyền kiểm soát của đảng. Họ muốn né vấn đề nên lái sang một ý nghĩa khác, cho rằng “môi sinh kinh doanh” là phải mở rộng của thị trường để cho tư bản ngoại quốc ào ạt tiến vào làm chết nền công nghiệp trong nước. Sự thật trong việc tạo môi sinh kinh doanh, mở cửa thị trường là một nguyên tắc căn bản, vì nếu không mở cửa làm sao có đầu tư ngoại quốc có những liên doanh ngoại quốc. Nhưng mở cửa rộng đến đâu là tùy ở những hiệp ước kinh doanh song phương được thương thảo giữa nước chủ nhà và bên ngoài. Hà Nội không thể nại bất cứ lý do gì để tìm cách kiểm soát môi sinh kinh doanh. Đây là một nguyên lý căn bản cần phải nhận định cho đúng. Môi sinh đó không phải để kiểm soát gò bó kinh doanh mà trái lại phải yểm trợ kinh doanh, có như vậy kinh tế mới phát triển được.
Muốn tạo ra một môi sinh kinh doanh như vậy Hà Nội bắt buộc phải cải tổ cơ cấu thương mại cho thật sự có cạnh tranh công bằng, có nghĩa là phải giải trừ nạn sủng ái quốc doanh và tạo cơ hội cho tư doanh nẩy nở, phải có một dàn pháp lý trong sáng để thoát khỏi nạn quan liêu giấy tờ rờm rà và bưng bít, phải có luật lệ và một hệ thống ngân hàng thực sự đổi mới để trừ cho tận gốc nạn tham nhũng ở cấp cao. Hà Nội đã từng nhìn nhận những nhu cầu này để xin viện trợ từ bên ngoài. Nhưng cho đến nay giới cầm đầu đảng vẫn trì trệ trong việc thi hành, bề ngoài nói sợ làm sói mòn quyền lực của đảng nhưng sự thật họ sợ mất chỗ ngồi hay đúng hơn sợ mất nhũng quyền lợi riêng tư. Nay tình thế đã đổi khác, huyền thoại “đổi mới từng bước” không còn đứng vững nữa, không phải vì những thúc ép của bên ngoài mà vì những áp lực thực tế từ bên trong.
Áp lực nguy hiểm nhất đang đè nặng lên chế độ Hà Nội là nạn thất nghiệp gia tăng, làm trầm trọng thêm nạn nghèo khổ ở nông thôn. Hà Nội đã thấy sợ nên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã phải đích thân đến thăm tỉnh Thái Bình, nơi nông dân đã nổi loạn. Phiêu nói dân Thái Bình nổi loạn là để chống các cán bộ địa phương tham nhũng chớ không phải chống toàn bộ chế độ cộng sản. Nhưng nếu chế độ cũng tham nhũng từ trên xuống dưới, dân sẽ nghĩ sao" Sự thật cái ngòi nổ bạo loạn mạnh nhất và mau nhất không phải là nạn tham nhũng của chế độ mà là nạn nghèo khổ và bất công trắng trợn bắt nguồn từ tình trạng không có công ăn việc làm. Theo những con số mới nhất, dù chưa sát với thực tế, nông thôn ngày nay có 12 triệu nông dân thất nghiệp. Một số cố len lỏi ra thành phố kiếm ăn nhưng ở khu vực thành thị tỷ lệ thất nghiệp lại trầm trọng hơn vì có đến 6 triệu người không có công ăn việc làm.
Kỳ lạ thay, việc giải quyết nạn thất nghiệp lại đụng đến một cơ chế quan trọng nhất của chế độ. Đó là nhu cầu phải phát triển mạnh lãnh vực tư doanh mà bỏ hẳn ước mơ lấy quốc doanh lãnh đạo kinh tế cả nước. Chỉ có tư doanh mới có khả năng hấp thụ nổi số người thất nghiệp đông đảo như vậy. Phát triển tư doanh là bắt buộc phải tạo môi sinh kinh doanh theo đúng nghĩa của nó, tức là một sự tái cấu trúc rộng lớn, bao quát cả việc cải tổ chế độ chính trị. Nói cách khác đó là diễn biến hòa bình. Nếu không chịu cách diễn biến này thì chỉ còn việc ngồi chờ một cách diễn biến khác... không có hòa bình chút nào.