Hôm nay,  

Tín Vô Mê, Giác Bất Mị

20/09/200300:00:00(Xem: 4461)
Từ lâu tôi vẫn nghĩ tín ngưỡng rất cần cho nhân loại và các tôn giáo lớn đã phát triển để tồn tại hàng ngàn năm qua là do đã nêu cao được một chân lý bất diệt: khuyến thiện, trừ ác. Nhưng có nhiều trường hợp, đức tin tôn giáo đã bị lợi dụng. Vào đầu thiên niên kỷ này, sự lợi dụng đó ngày càng đa dạng và tác hại rộng lớn đến tầm mức chưa từng thấy. Vì thế tôi nghĩ đến mấy chữ "Tín vô mê, giác bất mị". Mấy chữ Hán này do tôi tự ghép, có lẽ nhiều bạn trẻ thấy ngỡ ngàng, nên có vài lời giải thích cho rõ. Tin đạo khác với mê đạo. Sự thật, mê phản lại tin, khi đã mê thì đức tin không còn nữa. Tin là do lương tri, còn mê là do mù quáng, không biết phân biệt phải trái, làm mồi cho mọi sự hoang tưởng, đi đến mê tín dị đoan. Đức tin dựa trên lương tri và sáng suốt là đức tin vững chắc, còn đức tin dựa trên mê muội là tội lỗi, phản lại lời dạy của đấng chí tôn khai đạo. Còn giác là giác tha, giác là hiểu biết, tha là người khác. Khi đã có đức tin chân chính sáng suốt về một tôn giáo, tìm cách làm cho người khác cũng giác ngộ đức tin như chính mình, đó là giác tha. Đây là sứ mạng của các vị tu hành, nhưng cũng không thiếu gì những kẻ mạo nhận thuyết giảng để "mị", nghĩa là cám dỗ, mê hoặc người dại khờ hay trẻ thơ ngây để lôi cuốn đi vào mê cung, làm những việc tồi bại, không một tôn giáo chân chính nào rao giảng.
Trường hợp lợi dụng giáo điều để "mị giáo", tôn giáo nào cũng có, nó cũng giống như thói lợi dụng dân chủ để cầu lợi về chính trị nên thường được gọi là "mị dân". Riêng về Phật giáo, trường hợp "mị" rất hiếm, và nếu có cũng không tác hại ghê gớm như một số tôn giáo khác. Lý do có lẽ vì đạo Phật không có giáo điều cứng nhắc có tính trói buộc để kẻ gian lợi dụng bóp méo, thao túng và mê hoặc. Hơn nữa vị khai sáng đạo là Đức Phật Thích Ca Mầu Ni không hề tự nhận mình là thần linh và cũng không hề nói đến sự "khải thị" (vision) một đấng thần linh nào để làm tiên tri hay sứ giả những lời truyền dạy của đấng cao cả ở trên trời. Đức Thích Ca sinh ra đời như mọi người nhưng Ngài là một vị siêu phàm trong loài người vì đã tu luyện đạt đến mức đại giác đại ngộ (Buddha). Ngài chỉ là một người Thầy hướng dẫn đệ tử theo con đường (đạo) giải thoát khỏi cảnh trầm luân bể khổ. Các Phật tử như chúng ta ngày nay niệm "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mầu Ni Phật", tức là đã xác nhận ước nguyện của Phật tổ muốn chúng ta xưng tụng Ngài như một người thầy, người dẫn đường chớ không có gì huyền hoặc cả. "Nam Mô" phiên âm Phạn ngữ là lời kính mừng, còn "bổn sư" có nghĩa là "vị Thầy của tôi". Nếu chúng ta vô tình hay hữu ý huyền hoặc hóa đạo của Ngài, chúng ta sẽ đi ngược lại lời Phật dạy.
Đạo Phật không có giáo điều huyền hoặc để "mị". Đạo Phật cũng không dùng vũ lực để bành trướng. Vậy mà từ hơn 2000 năm qua, Phật giáo từ Bắc Ấn đã lan truyền về phía Bắc đến Tây Tạng rồi qua một nước đông dân cư nhất thế giới là Trung Quốc, lan tới Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, về phía Nam qua Tích Lan, Thái Lan, Cam Bốt. Ngày nay Phật giáo có mặt ở nhiều nước trên thế giới, kể cả Mỹ và Âu châu. Đó là vì Phật giáo là một tôn giáo mở rộng vòng tay đón nhận (inclusive) chớ không loại trừ (exclusive). Phật giáo không coi người không theo đạo là kẻ thù. Hơn nữa, Phật giáo dễ thích ứng với các nền văn hóa và phong tục tập quán khác nhau của các dân tộc. Đạo Phật không dùng vũ lực để chinh phục nên cũng không bao giờ sợ bị tiêu diệt bằng vũ lực. Đạo Phật bất chấp mọi sự thách đố của vũ khí và bạo lực vì Phật tử vững tâm tin chắc không có sức mạnh nào trên đời này có khả năng tiêu diệt được mối đạo.
Đức Phật đã chỉ ra một con đường (đạo) để chúng sinh noi theo. Đó là một con đường sáng tỏ như ban ngày, không có gì uẩn khúc, không ai có thể gièm pha. Các phương pháp tu luyện có nhiều để đạt thành đạo quả, nhưng có một pháp là Thiền định rất khó tu và ít nguời hiểu. Thế giới bên ngoài trước đây thường nhìn những cảnh tham thiền nhập định của Phật gia bằng những cặp mắt ngờ vực, đôi khi còn hỏi ngồi thiền như vậy có ích gì không và có khi còn nghi ngại cho rằng đây chỉ là một cách cố ý tạo ra sự huyền hoặc để hấp dẫn sự chú ý của người ngoại cuộc. Chính ở đây tôi muốn nhắc đến việc Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 đã mời giới khoa học Tây phương nghiên cứu về Thiền định của Phật giáo, bằng cách dùng máy móc kỹ thuật hiện đại trực tiếp quan sát và đo lường óc của các vị Thiền sư trong lúc tham thiền cũng như trong lúc không nhập định.
Tôi nghĩ quyết định của Đạt Lai Lạt Ma đón mời các nhà khoa học tham khảo là đúng theo lời dạy của Phật Tổ Như Lai: Cửa Thiền bao giờ cũng rộng mở tiếp đón tất cả mọi người, kể cả những người ngoại đạo, hoài nghi hay phỉ báng. Quyết định mở cây cầu giao tiếp giữa Phật giáo và khoa học hiện đại là một quyết định lịch sử, mở ra một chân trời mới cho tư duy nhân loại vào đầu thiên niên kỷ 3. Tôi đặc biệt hoan nghênh việc làm của Đạt Lai Lạt Ma, cuộc họp của Ngài với các khoa học gia Mỹ ở Đại học MIT đã giúp tôi tìm được một chữ ưng ý nhất cho bài viết này. Đó là từ "giải huyền" (demystification). Trước đây Thiền định vẫn bị coi như một môn tu luyện thần bí huyền hoặc, nay sự hợp tác giữa các tu sĩ Phật giáo và các khoa học gia Tây phương đã giải tỏa được sự huyền hoặc và chứng nhận được giá trị vô lượng của Thiền đối với con người và xã hội loài người trong tương lai.
Giải huyền Thiền định.
Tạp chí Chủ nhật của New York Times ra ngày 14-9-03 đã đăng một bài báo tựa đề: "Phật giáo có tốt cho sức khỏe của bạn không"" Tôi bất giác mỉm cười, tò mò đọc bài báo để xem vào năm 2003 này dư luận Mỹ đã biết về đạo Phật như thế nào, nhất là bài báo cũng có những chi tiết hấp dẫn về cuộc khảo cứu của các khoa học gia hiện đại liên quan đến môn Thiền của Phật giáo. Vào mùa Xuân năm 1992, người nhận được thư mời của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một khoa học gia về thần kinh, Giáo sư Richard Davidson của Đại hoc Wisconsin ở Madison. Ông đã từng luyện các phương pháp tập trung tư tưởng, nên nắm ngay lấy cơ hội. Mấy tháng sau ông tổ chức một đoàn khảo sát bay qua Bắc Ấn Độ đem theo đầy đủ các dụng cụ khoa học, kể cả một máy phát điện xách tay, các computer laptop và dụng cụ đo điện não đồ (EEG). Chủ đề khảo sát có vẻ hơi mơ hồ: đo lường những đặc tính thần kinh trong tâm trí của một nhà sư Phật giáo khi tham thiền. Sự thật vào lúc đó chính các nhà thần kinh học tên tuổi của Mỹ cũng dội lại, nếu không cố ý né tránh, lời mời đi khảo sát về môn Thiền Phật giáo, họ coi đó như một đề tài mập mờ, nếu không nói là hơi "phiêu" một chút. Nhưng công tác của Davidson đã dần dần lôi cuốn được nhiều khoa học gia khác, trong khi sự tự nguyện tham gia của các vị sư Phật giáo mỗi lúc một gia tăng. Trong vòng 10 năm qua, sự khảo cứu về Thiền của giới khoa học Tây phương đã vượt qua lằn ranh từ lãnh vực một cuộc khảo cứu khả dĩ chấp nhận được, nó đã trở thành một chủ đề có giá trị đáng để Khoa học quan tâm nghiên cứu kỹ. Phần lớn cũng là nhờ những kỹ thuật mới về sự "soi óc" đã tiến bộ hơn trước, không những ghi được tâm trí của một người đang tham thiền mà còn khám phá được những biến đổi trong hoạt động não bộ hàng tháng sau một buổi thiền định lâu dài. Các nhà thần kinh học trong luồng chính ở Mỹ đã thấy tò mò về khả năng bộ óc của các vị thiền sư Phật giáo. Giáo sư Paul Ekman của Đại Học California-San Francisco và Stephen Kosslyn của Harvard bắt đầu tổ chức các cuộc nghiên cứu riêng về khả năng bộ óc của các vị sư Phật giáo. Ngoài ra những cuộc khảo cứu có kiểm soát chặt chẽ đã cho thấy các bệnh nhân Tây phương, nếu tham thiền theo kiểu các nhà sư Phật giáo, có thể tạo ra những biến đổi về sinh lý học trong bộ óc và hệ thống miễn nhiễm của họ. Chính vì có sự quan tâm của giới y học về Thiền nên trong cuộc hội thảo với phái đoàn tăng già Tây Tạng do Dức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo tại Đại học MIT cuối tuần qua đã có một số khoa học gia hàng đầu về thần kinh học của Mỹ đến dự.

Dĩ ý điều thân.
Lấy ý lực mà ảnh hưởng đến sự điều hành những chức năng của cơ thể là một điểm chính vô cùng quan trọng cho sức khỏe con người. Bài báo của New York Times có đoạn viết, xin lược dịch như sau: "Trong suốt 2500 năm lịch sử, Phật giáo đã dồn năng lực vào bên trong để tu tâm luyện trí, hiểu rõ được căn nguyên những xúc cảm tiêu cực, tìm cách tháo gỡ chúng để thay thế bằng cách nuôi dưỡng những trạng thái xúc cảm tích cực như từ bi (compassion) nhằm cải tiến phúc lợi của con người và xã hội. Hàng chục năm qua, sự khảo cứu khoa học Mỹ nhắm vào những hiệu ứng ngắn hạn của môn thiền đối với hệ thần kinh con người, đã cho thấy rõ tập luyện Thiền định làm giảm những triệu chứng của sự căng thẳng như nhịp tim đập và sự xuất hạn. Sự nghiên cứu đó đã làm căn bản cho môn gọi là "đáp ứng thư dãn" (relaxation response) do GS Herbert Benson của Harvard phổ biến trong thập niên 70. Tuy nhiên ngày nay người ta thấy sự tu luyện Thiền nhằm vào sự biến đổi trường kỳ của các hoạt động thần kinh hệ chớ không phải chỉ có ngắn hạn. Và chính hiệu quả lâu dài của Thiền đối với tâm trí và cơ thể con người đã khiến các khoa học gia ngày càng thấy ham muốn tìm hiểu thêm.
Theo lời GS Davidson, tập luyện thiền có nhiều nhánh tập, mỗi nhánh nhằm trau dồi một loại khả năng riêng của bộ óc. Ông cho biết các nhà khảo cứu ở Đại học Wisconsin nhắm vào 3 mặt thông thường của Thiền định. Thứ nhất là tập trung ý chí, trong mặt này các hành giả Thiền học phải tự luyện để tập trung chú ý vào một vật trong một thời gian lâu dài. Thứ hai là phải tự nguyện trau dồi tình thương, lòng bác ái. Đây là việc họ phải làm hàng ngày và có những buổi tập đặc biệt để ý thức được những biến cố tiêu cực, những gì dễ gây ra tức giận và bực bội, để biến đổi những độc căn đó và dùng một liều thuốc khử độc để trị nó. Liều thuốc khử độc có tên là tình thương (compassion) nhưng tôi nghĩ chữ "từ bi hỷ xả" đúng với Phật pháp hơn. Thứ ba có tên là "hiện hữu mở". Đây là trạng thái ý thức được rõ ràng sự hiện hữu của bất cứ loại tư tưởng, tình cảm hay xúc cảm nào mà không có phản ứng.
Sự kiện bộ óc có thể học, thích ứng và tự tái cấu trúc các phân tử của nó trên cơ sở kinh nghiệm và tập luyện đã gợi ý cho thấy thiền định có thể để lại những chất dư có tính sinh học trong bộ óc - chất dư mà nếu kỹ thuật học mới vi diệu hơn và tinh tấn thêm, có thể thu được nó để nghiên cứu và đo lường. Nhà thần kinh học Stephen Kosslyn của Harvard nói: "Sự kiện này đúng trong toàn bộ sách vở và thí nghiệm của khoa học thần kinh. Người ta đã thử nghiệm xem trí nhớ đường lộ của các bác tài lái xe taxi như thế nào. Nếu bạn làm bất cứ việc gì, ngay cả chơi ping pong, trong suốt 20 năm, mỗi ngày 8 tiếng đồng hồ, cố nhiên sẽ có một cái gì đó tích lũy dư lại trong óc bạn, khác với bộ óc của những người không làm việc đó". Sức mạnh của tâm trí ảnh hưởng đến sự điều hành của cơ thể là điều các khoa học gia quan tâm đến từ lâu, nhất là mối liên hệ giữa các hệ thần kinh, miễn nhiễm và các tuyến kích thích tố gọi là hoóc-môn. Các nhà khảo cứu của Đại học Ohio đã thực hiện một loạt những cuộc nghiên cứu cho thấy sự căng thẳng của tâm trí làm hư hệ thống miễn nhiễm của con người.

Về các cuộc thí nghiệm Thiền định, một điều rất đặc biệt là các vị tu hành Phật giáo rất hoan hỉ đối với những sự giải thích khoa học về phép tu của họ. "Phật giáo, cũng như khoa học, đặt trên cơ sở thực nghiệm và khảo xét, chớ không phải giáo điều". Một tu sĩ Phật giáo gốc người Pháp, tên là Matthieu Ricard, đã nói như vậy. Ricard có bằng Tiến sĩ về sinh học phân tử và cũng là người tham gia cuộc khảo sát về Thiền tại Ấn Độ cũng như tại Mỹ. Trong một e-mail gửi cho bạn mới đây, Tu sĩ Ricard viết tôn giáo có thể được coi như một "khoa học trầm mặc" và ông tiếp: "Đức Phật luôn luôn nhắc mọi nguời không nên chấp nhận những lời dạy của Ngài chỉ vì kính nể Ngài, mà cần phải khảo sát thêm để tìm ra chân lý qua sự thí nghiệm riêng của chính mình, cũng giống khi ta thử vàng cần phải mài nó trên cục đá hay nấu nó chảy ra..."
Tôi muốn kết luận bài này bằng một vài suy tư riêng về Đức Phật Thích Ca. Ngày nay các khoa học gia hiện đại nhất của thế giới Tây phương như thể đã khám phá thấy chuyện lạ nên tới tấp đặt câu hỏi: Có cách nào kiểm soát được sự tập trung tư tưởng hay không" Có thể nào tập luyện được chú ý lực và làm nó hoàn hảo hay không" 2500 trước đây có một vị Giáo chủ đã trả lời được những câu hỏi đó và trong hàng ngàn năm qua các môn đệ của Ngài đã tập luyện theo lời dạy của Ngài.
Tôi viết đến đoạn cuối chợt nhìn lên lịch thấy đã sắp đến tháng 10 và nghĩ đến ngày kỷ niệm bản Tuyên ngôn Nhân quyền. Chúng ta chỉ mới biết đề cao nhân quyền từ năm 1948, sau khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt. Vậy mà 2500 năm trước đã có một người nâng loài người lên một vị trí cao cả nhất, hơn cả những bực vua chúa quyền uy thời đó, với câu nói "Phật tại tâm". Phật là bực đại giác đại ngộ, đấng chí tôn của loài người, vậy mà Ngài dạy các đệ tử giầu cũng như nghèo, sang cũng như hèn, thuộc bất cứ sắc tộc nào: "Trong tâm của các con có một cái mầm Phật nhỏ như hạt cát. Các con hãy biết phát triển hạt cát đó để thành Phật". Con người không chỉ có quyền làm người mà còn có quyền trở thành một đấng chí tôn ngang hàng với Phật. Còn có sự tôn vinh nhân quyền nào triệt để hơn như vậy" Đức Thích Ca Mầu Ni quả là nhà quán quân đầu tiên và vĩ đại nhất về nhân quyền của thế giới, trước các vị quán quân chạy đua tranh giải nhân quyền ngày nay cả 25 thế kỷ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.