Hôm nay,  

Tin Văn: V.s. Naipaul: Hai Thế Giới (2)

11/01/200200:00:00(Xem: 8637)
Diễn văn Nobel văn chương 2001.
(ngày 7 tháng Chạp 2001)

Chúng tôi tôi sống trên đất của người Chaguanes. Niên học - tôi vừa mới bắt đầu đi học - ngày nào tôi cũng bước ra khỏi nhà bà tôi, đi qua hai hoặc ba cửa hàng nằm trên đường lớn, một tiệm Tầu, nhà hát Jubilee, một nhà máy nhỏ của người Bồ Đào Nha, quãng đường này sặc mùi xà bông mầu xanh và mầu vàng, loại rẻ tiền, những thỏi dài được phơi khô ngay từ buổi sáng ở bên ngoài nhà máy - những cảnh vật tưởng như mãi mãi như thế đó, ngày nào tôi cũng đi qua, trên con đường từ nhà tới trường nhà nước Chaguanas. Quá ngôi trường, là đồn điền trồng mía, trải dài mãi tới Vịnh Paria. Những con người ngày xưa sở hữu mảnh đất này, họ có loại trồng trọt, lịch ngày tháng, mùa màng, những luật lệ, những nơi chốn đình đám thiêng liêng của riêng họ. Họ thuộc nằm lòng những đợt triều lên xuống của con sông Orinoco, nhằm bồi dưỡng Vịnh Paria. Giờ đây, mọi kỹ năng, hiểu biết của họ, và mọi chuyện về họ, đều tiêu tan.

Thế giới luôn chuyển động. Đâu đâu cũng vậy thôi, những con người có lúc trở thành trắng tay. Tôi nghĩ, cú sốc của tôi vào năm 1967, khi khám phá ra cái tên nơi mình sinh như trên, là bởi vì tôi chưa từng có một ý nghĩ gì về nó. Nhưng đây là số phần của hầu hết những con người như chúng ta, sống mù lòa, tại những xứ thuộc địa, chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Không phải nhà cầm quyền mưa toan giữ dịt chúng ta vào trong cảnh tối đen mù lòa như thế. Theo tôi, giản dị chỉ là thế này: ở đó không có tri thức, nói nôm na, không có hiểu, chẳng có biết. Quan trọng gì ba thứ hiểu biết về những người thổ dân Chaguanes. Và cũng thật khó mà bảo tồn gìn giữ. Một bộ lạc nhỏ xíu, mà lại là thổ dân. Những người như thế - chúng tôi nghe nói về những người đồng loại với họ, ở nơi đất liền, tức nơi chốn có tên là B.G, tức Guiana thuộc Anh (British Guiana) - thường được nêu ra để làm trò cười. Theo tôi, tất cả những cộng đồng sắc dân ở Trinidad, họ đều gọi những con người ồn ào, cư xử không giống ai như vậy, là những "warrahoon". Lúc đó, tôi nghĩ, đây là một từ được bịa đặt ra, theo một nghĩa thái quá, để chỉ sự man rợ. Chỉ tới khi, bốn chục tuổi, bắt đầu du lịch xứ Venezuela, tôi mới hiểu rằng, đây là tên một bộ lạc thổ dân khá lớn tại đó.

Hồi nhỏ, có một câu chuyện có vẻ mơ hồ - bây giờ, nó gây chấn động ở nơi tôi - về những người thổ dân: vào những thời điểm nào đó, họ từ đất liền dùng ca nô tới, đi vô rừng ở phía nam con đảo, và tới một địa điểm nào đó, hái một thứ trái cây đặc biệt, hoặc cử hành một thứ tế lễ, rồi vượt Vịnh Paria, trở về, tới vùng đất sũng nước ở cửa sông Orinoco. Nghi lễ này chắc là rất quan trọng, bởi vì nó sống sót, qua bao thăng trầm kéo dài bốn thế kỷ, qua sự hủy diệt những bộ lạc thổ dân ở Trinidad. Và có lẽ - mặc dù Trinidad và Venezuela cùng chung một quần thực vật (flora) - họ chỉ tới để hái một thứ trái cây đặc biệt nào đó. Tôi không hiểu. Tôi cũng chẳng có cách chi để mà tìm hiểu, bởi vì chẳng tìm ra một ai để mà làm chuyện này. Và bây giờ thì một chút mảy may hồi nhớ về câu chuyện trên cũng chẳng còn; và một nghi lễ thiêng liêng như vậy, nếu có thiệt, thì cũng trở thành một thứ của chung trong trời đất (nguyên văn: mảnh đất chung, common ground).

Quá khứ là... quá khứ. Tôi cứ giả dụ, đây là thái độ chung. Và chúng tôi, người Ấn, di dân từ xứ Ấn Độ tới đây, cũng có "thái độ chung" (general attitude) như vậy, với con đảo. Sống rúi mãi vào những nghi lễ tập tục; chẳng thể nào, hoặc chưa thể nào có đủ "nội lực" để mà tự thẩm định (self-assessment) - bởi vì nơi bắt đầu đánh giá mình, cũng là chốn khởi đầu của tri thức, học hỏi. Trên đất đai của những người Chaguanes, một nửa trong số chúng tôi cứ giả đò, có lẽ cũng không phải giả đò, có lẽ chỉ có cảm tưởng, nhưng chẳng hề phát biểu ra thành lời một cách gọn gàng như một ý nghĩ, hay tư tưởng, rằng, "chúng mình" đã mang theo một thứ Ấn Độ với chúng mình, và cái thứ Ấn Độ đó, hóa ra là một tấm thảm, và cứ thế trải ra mặt đất.

Căn nhà của bà tôi ở Chaguanas chia làm hai phần. Phía trước bằng gạch và vữa (plaster), sơn mầu trắng. Giống như kiểu nhà Ấn, tầng một có miếng sân lớn có lan can, tầng trên có một phòng nhỏ làm nơi cầu nguyện. Tham vọng ở trong từng chi tiết trang hoàng: những cây cột đội bông sen, những tượng thần Ấn Độ, tất cả được thực hiện bởi những con người mà với họ, xứ Ấn Độ chỉ còn là một kỷ niệm. Đặt vào xứ Trinidad, nó là một thứ kiến trúc kỳ quặc. Ở phía sau - được nối với căn nhà phía trước bằng một hành lang cao, giống như một căn phòng dùng làm cây cầu - là một căn nhà bằng gỗ theo kiểu nhà Tây ở vùng Caribbean. Lối vào chính ở về một bên, giữa hai căn nhà. Một cái cổng sắt cao, khung bằng gỗ, mang vẻ thật riêng tư và bề thế cho căn nhà.

Vậy là, ngay từ khi còn là một đứa con nít, tôi đã cảm ra được rằng, có hai thế giới; một ở bên ngoài cái cổng sắt cao, và một ở bên trong nhà - hay khiêm tốn hơn, thế giới căn nhà bà tôi. Đó là cõi còn lại, ấy là nói về thứ tình cảm giai cấp của chúng tôi, thứ cảm quan [muốn] đẩy mọi thứ khác ra ngoài, và đóng sập [cửa lại]. Tại Trinidad, những người mới tới như chúng tôi, chúng tôi co cụm lại thành một cộng đồng thua thiệt đủ thứ, thành thử cái ý nghĩ đẩy mọi thứ ra ngoài, tự cô lập, hóa ra là hình thức tự vệ; nó giúp chúng tôi - vào lúc đó, và chỉ nội vào lúc đó - sống theo kiểu của riêng chúng tôi, theo những qui luật của riêng chúng tôi, [nghĩa là] sống ở trong cái xứ Ấn Độ đã xa xăm và trở thành nhạt nhòa của riêng chúng tôi. Đấy là một cách chúi rũi mãi vào chính mình thật là khác thường. Chúng tôi nhìn vào phía bên trong; chúng tôi làm tròn (live out, accomplir) những ngày tháng của mình; thế giới bên ngoài hiện hữu như là một thứ bóng đen; chúng tôi chẳng thèm để ý, chẳng thèm tìm hiểu bất cứ chuyện gì.

(còn tiếp)

Jennifer Tran chuyển ngữ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.