Cách mạng rất đa dạng nhưng vẫn có một số đặc điểm giống nhau, theo nhận định của một số học giả (Tocqueville, 1955; Brinton,65; Lewis, 84; và Tilly, 86).
Khác với lẽ thường, lịch sử chứng minh cách mạng hay xảy ra khi người dân cảm thấy đời sống đỡ hơn. Hy vọng một cuộc sống tốt đẹp hơn, chớ không phải sự cam chịu cảnh đói nghèo, gây nhiệt tình cách mạng. Cách mạng thường xảy ra khi nhà cầm quyền không đáp ứng khát vọng của nhân dân và khi họ phải tạo một thế chính thống công quyền mới.
Phóng chiếu học lý trên vào hiện tình đất nước nhà, thời cơ một cuộc cách mạng chánh trị dường như đã chín mùi. Công tâm mà xét cuộc Đổi mới Kinh tế, từ kinh tế kế hoạch, chỉ huy cứng rắn sang kinh tế thị trường tự do, dầu vẫn còn lòng thòng cái đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn làm cho đời sống người dân có phần đỡ hơn. Vì chuyển sang kinh tế thị trường, thế chính thống cộng sản hoàn toàn bị mất gốc. CSVN phải tìm một thế chính thống mới là thắng giặc nghèo, đưa đất nước ra khỏi tình trạng lạc hậu, chậäm tiến. Nhưng CSVN chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chánh trị. Chánh trị vẫn còn nằm trong sự thống trị toàn diện kiểu CS cũ lỗi thời nặng tính giáo điều và Stalinist. Đảng hoàn toàn bất động, không đáp ứng bất cứ một đòi hỏi đổi mới chánh trị nào bên trong cũng như bên ngoài Đảng.
Trong hoàn cảnh một xã hội bế tắc và bầu không khí chánh trị ngột ngạt ấy, hai xu thế chánh trị đối kháng đương nhiên phát sinh và trực diện kình chống nhau. Một bên là thế lực độc quyền của Đảng CSVN. Bên khác là xu thế tự do dân chủ dần dà tạo thế lâm nguy cho Đảng. Thế lâm nguy này CS rất sợ nên như sĩ tử khi xưa sợ phạm húy ở trường thi, gọi bằng một cái tên vô nghĩa là Phong trào Diễn biến Hoà bình.
Cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo ra đời đúng vào giai đoạn ấy. Dưới góc nhìn của cách mạng chánh trị, cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo là bước đầu trong tiến trình của một cuộc cách mạng chánh trị cho xã hội Việt Nam.
Thực vậy, tôn giáo là yếu tố quan trọng nhứt của bất cứ một nền văn hóa nào trên thế giới trong không gian cũng thời gian. Tôn giáo là yếu tố văn hóa ảnh hưởng sâu đậm nhứt trong cuộc sống cá nhân và xã hội. Ngay nước Mỹ là nước giàu mạnh và văn minh nhứt nhì hánh tinh này, trên 90% dân số Mỹ vẫn tự nhận mình là người có tín ngưỡng (NORC, 1999: 124). Sinh, bịnh, lão, tử; khi ăn, lúc ngủ; tôn giáo đều có mặt bên con người, từ bắc cực tuyết lạnh cắt da đến xích đạo nắng cháy nám người.
Tôn giáo là thành phần trội yếu của cuộc sống cá nhân và xã hội mà đòi được và có được tự do. Tự do dân tộc, tự do dân chủ là chuyện nhỏ. Ai làm việc lớn được thì làm việc nhỏ được (Qui peut le plus peut le moins), như đã nói một phương ngôn pháp luật.
Riêng hoàn cảnh Việt Nam hiện tại, luận cứ trên càng có nhiều khả năng thuyết phục hơn. Văn hóa VN là văn hóa trọng đạo. Văn học VN, văn dĩ tải đạo là chánh. Người VN bản tánh mộ đạo. Tỷ lệ dân số có tín ngưỡng chưa có số thống kê rõ ràng và cập nhựt nhưng chắc chắn phải cao hơn của Mỹ là 90% vì văn minh VN hướng tâm linh nhiều hơn vật chất so với của Mỹ.
Kế đến quần chúng hiện còn có tổ chức, lãnh đạo, và còn gắn bó với nhau trong nước, là quần chúng có tín ngưỡng sau 25 năm ở Miền Nam và gần nửa thế kỷ ở Miền Bắc, CS diệt không nương tay các đảng phái chánh trị.
Thông thường các cuộc đấu tranh qua ba bước: bất bạo động, bất hợp tác, và bất tuân hành. Cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo ở nước nhà đang ở bước một, bất bạo động. Ít khi nhà cầm quyền nhượng bộ ở giai đoạn này.
Trái lại họ thường nỗ lực diệt trong trứng nước, cụ thể như lời tuyên bố gần đây của Chủ tịch Nước VNCS, Trần đức Lương.
Nhưng sức ép càng nhiều, sức bậc càng cao. Luật ấy sẽ là lý do đưa cuộc đấu tranh qua buớc hai, bất hợp tác. Nếu không có tương nhương cụ thể, tín đồ PGHH có thểõ đi đến giai đoạn chỉ làm ruộng đủ ăn, bỏ trống phần còn lại trong vài mùa, hay bớt vu trong nămï. Nhân dân có thừa lý do cho việc tẩy chay của mình để tranh việc CSVN có lý do gây khó khăn như lấy đất lại . Số gạo xuất cảng vì thếõ nhứt định bị ảnh hưởng. Ngôi vị nước thứ nhì xuất cảng gạo trên thế giới của VNCS sẽ mất. Nguồn thu ngoại tệ sẽ giảm trầm trọng vì dù sao VNCS vẫn còn là một nước dĩ nông vi bản. 60% số gạo xuất cảng nằm trong Đồng Bằng Cửu Long, nợi quần cư của tín đồ PGHH và do bàn tay chai sạn của số tín đồ này làm ra.
Ngoài ra bất hợp tác kinh tế vì tự do tôn giáo sẽ được nhiều người Việt hải ngoại hỗ trợ. Năm 1999 theo Reuter ngoại tệ người Việt gởi về giúp bà con là từ 1,2 tỷ đến 2 tỷ đô la. Nếu dân Việt hải ngoại chỉ tạm giảm 50% hay ngưng 6 tháng, việc gì sẽ xảy ra. Đừng quên VNCH xưa chỉ bị Quốc hội Mỹ cắt còn 700 triệu đô la viện trợ là khủng khoảng chánh trị dây chuyền dẫn đến khủng khoảng lãnh đạo và quân sự qua việc rút quân ở Cao Nguyên bắt đầu ngày thua trận của VNCH.
Nhưng việc bất hợp tác gởi tiền không xảy ra đơn độc. Nó thừờng đi với tẩy chay hàng hóa của VNCS tại Mỹ. Thương ước lúc đó không còn là phao cứu sinh, mà là tờ giấy lộn giữa Mỹ và VNCS. Hàng hóa làm tại VNCS bị tẩy chay , các công ty Mỹ không có lý do để mang vốn liếng đến để đấu tư. Hậu quả còn mạnh hơn việc cấm vận của Mỹ. Điều này cũng gây đau đớn cho dân hải ngoại khi thấy bà con mình ở quê nhà bị vạ lây vì nhà nước.
Bước ba là bất tuân hành (bất phục tùng dân sự). Bước này không phải là một bước riêng rẽ, đơn độc. Nó kết hợp, hòa huyện với hai bước đầu. Nhiều dấu vết của nó đã thấy trong hiện tình tranh đấu trong giai đoạn đầu bấät bạo động. CSVN cấm tín đồ PGHH về Thánh địa, giữ giấy ghe tàu, cấm tụ họp trước khám đường giam các trị sự viên. Các trị sự viên ra tòa cãi oang oang, Quần chúng vượt qua nỗi sợ chánh quyền. CS cấm Phật giáo đi Miền Tây cứu trợ. Phái đoàn Phật giáo vẫn đi. Lịnh chẳng có một giá trị nào. Lịnh đang không có giá trị trong lãmh vực tập thể có tổ chức và không bao lâu sẽ lây lan sang phạm vi cá nhân và gia đình. Đi ở không xin giấy đi đường. Không đăng ký tạm vắng tạm trú. Hộ khẩu, chứng minh nhân dân không còn là công cụ kiểm soát hành chánh trị an đối với chánh quyền để kiểm soát nhân dân. Các giấy tờ ấy cũng không còn là giấy tờ tùy thân , căn cước đối với nhân dân.. Từ đó sự phá sản giá trị cưỡng hành của hệ thống luật pháp và hành chánh công quyền
Bằng cớ cụ thể là công cuộc đấu tranh chống Đế quốc Anh của Thánh Gandhi tại Aán độ. Nhân dân VN ở thế kỷ 21 còn giác ngộ cách mạng hơn dân Aán bấy giờ. Mục tiêu tranh đấu vì tự do tôn giáo, cao cả thiêng liêng ,và thân thiết và hấp lực hơn nhiều.
Như đã trình bày, sử học và chánh trị học nói cùng một thư tiếng rằng là cuộc đấu tranh nhân dân thường qua ba bước, bất bạo động, bất hợp tác, và bất tuân hành, và dẫn đến cuộc thay đổi, cải tổ hay cách mạng. Hoàn cảnh VN, cuộc đấu tranh nhân dân do các tôn giáo phát động vì VN là một quốc gia trọng đạo với tuyệt đại đa số nhân dân rất là mộ đạo. Mục tiêu đấu tranh ban đầu là đòi tự do tôn giáo. Tự do này là tự do trội yếu, một khi đã thành đạt, sẽ dẫn đến tự do dân tộc và tự do dân chủ như ø định lý với hệ luận. Thay lời kết luận là câu nói của Nã phá luân, "Chánh quyền nào rồi cũng mất; chỉ có [giáo hội ] tôn giáo mới trường tồn." Minh họa cho lời nói của nhà quân sự tài danh ấy là sự trường tồn của Ky tô giáo trên sự suy tàn của Đế quốc La mã trong thế giới sử.