Hỏi (Bà Trần T.L.T.): Năm ngoái con tôi về Việt Nam ăn tết. Sau tết, vào tháng 4 năm 2002, con tôi rời Việt Nam để trở về Úc. Trước khi vào phi trường, có một người đàn ông rất lịch sự gởi nhờ con tôi đem hộ 2 đôi giày cùng một tấm thiệp cho một người bạn của ông ta tại Úc.
Ông ta cho biết là khi đến phi trường Sydney thì bạn của ông ta sẽ chờ sẵn để nhận thư cùng 2 đôi giày. Ông ta cho con tôi biết tên của bạn ông ta là Toàn như đã được đề trên phong bì của tấm thiệp. Ông ta còn cho biết là ông ta sẽ gọi điện thoại báo cho người bạn biết về chuyến bay của con tôi cùng nhân dạng để bạn của ông ta dễ nhận diện. Ông ta còn nói thêm là nếu bạn của ông không đến phi trường để nhận quà thì con tôi cứ tự nhiên mang về nhà và tặng cho bất cứ ai.
Khi đến phi trường Sydney thì nhân viên quan thuế phát hiện là trong đế và hộp đựng giày có chứa gần 200 gr bạch phiến. Thế là con tôi bị cáo buộc về tội nhập bạch phiến vào Úc. Hiện đang bị giam giữ chờ ngày xét xử.
Con tôi chưa hề bị liên lụy vào bất cứ tội phạm hình sự nào trước đây, điều này thật là oan ức cho con tôi. Xin LS cho biết là việc con tôi hoàn toàn không hay biết là có bạch phiến trong giày thì có phải bị tội hay không"
Trả lời: Trong vụ Bahri Kural (1987). Trong vụ đó, bị cáo cho biết rằng đương sự đã gặp một người lạ mặt bất ngờ tại Phi Trường Yalitski, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta hỏi bị cáo là đi về đâu, thì được bị cáo cho biết là đi Úc. Ông ta bèn nhờ bị cáo mang hộ một gói hàng trong đó có đựng một ấm nấu nước và một vài món đồ khác. Khi đến Úc sẽ có những người khác đến nhận hàng. Ông ta sẽ điện thoại cho những người đó là bị cáo mặc áo màu gì để họ dễ nhận diện.
Bị cáo hoàn toàn không hay biết là dưới đáy của ấm nước có dấu bạch phiến. “Bị cáo khai là đã mở gói hàng và đã xem xét những đồ để trong đó ở phi trường tại Thổ Nhĩ Kỳ mà không phát hiện được bạch phiến ở dưới đáy của bình nấu nước” (The accused claimed that he had opened the parcel and examined its contents at the airport in Turkey without detecting the substance in the base of the samovar).
Vì thế, vấn đề được đặt ra vào lúc xét xử là “ý định phạm tội” (guilty mind = mens rea). Liệu bị cáo, vào lúc nhận gói hàng để chuyển giao, có biết được rằng dưới đáy của bình nước có giấu bạch phiến hay không"
Vị thẩm phán tọa xử đã đưa ra lời hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn như sau:
“Đó là điều hiển nhiên rằng bị cáo đã biết là bị cáo có mang một ấm nước; bởi vì chính bị cáo đã nói cho quý vị biết điều đó. Để thiết định được yếu tố về ý định phạm tội công tố viện phải chứng minh cho quý vị là không còn gì để nghi ngờ rằng bị cáo đã biết được rằng có một vật gì đó ở trong ấm nước, vật gì đó mà bị cáo biết được hoặc là bạch phiến hoặc là một vật gì đó mà bị cáo không biết là vật gì “và tảng lờ đi không thèm để ý đến” (and simply closed his mind to it). Giờ đây, nếu bị cáo biết rằng đó là bạch phiến thì yếu tố về ý định phạm tội đã được thiết lập.
“Công tố viện không cần phải chứng minh rằng bị cáo đã biết đó là bạch phiến; Công Tố Viện chỉ cần chứng minh rằng bị cáo biết được là có vật gì đó ở trong ấm nước đó. . .” (The crown does not have to prove that he knew it was heroin; the Crown only has to prove that he knew there was something in that samovar . . .) Nếu tôi biết là có một vật gì ở trong đó và tôi cứ tảng lờ đi, tôi biết là có cái gì ở trong đó nhưng tôi không cần biết đó là vật gì, quý vị có thể thấy điều đó là hợp lý rằng tôi phải nhận lấy hậu quả nếu vật đó là thứ cấm nhập cảng”.
Bị cáo đã xin phép để được kháng án vì cho rằng thẩm phán tọa xử đã đưa ra “lời hướng dẫn sai lạc cho bồi thẩm đoàn” (misdirection to the jury). Điều thứ nhất, không cần phải “biết chắc” rằng có vật gì đó ở trong ấm nước mà chỉ cần “nghi ngờ” là có vật gì đó trong ấm nước. Điều thứ hai, không cần thiết phải tảng lờ đi đối với vật gì đó ở trong ấm nước mà chỉ cần nghi ngờ vật trong ấm nước có thể là bạch phiến. Tuy nhiên, công tố viện đã cho rằng “đó là lời hướng dẫn sai lạc có lợi cho bị cáo” (it was a misdirection favourable to the applicant).
“Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” (the High Court) bèn từ chối đơn xin phép được kháng án và cho rằng mặc dầu có sự hướng dẫn sai lạc nhưng không vì thế mà cho rằng là có sự xét xử sai lầm.
Như đã trình bày ở trên, bà có thể thấy được rằng “ý định phạm tội” là yếu tố để quyết định liệu con bà có phạm tội như đã bị cáo buộc hay không. Vấn đề liệu con bà có ý định phạm tội vào lúc nhận hàng hay không điều đó sẽ được quyết định bởi bồi thẩm đoàn vào lúc xét xử (nếu con bà đồng ý để được xét xử bởi bồi thẩm đoàn).
Tôi đề nghị bà nên gặp LS để được cố vấn tường tận hơn.
* * *
Hỏi (ông Trường Ngọc Nguyễn): Tôi có một cháu gái ở Việt Nam đã lấy chồng ở tại Adelaide. Chồng cháu đã bảo lãnh cháu theo diện vợ chồng, nhưng đơn bảo lãnh đã bị Bộ Di Trú Úc từ chối vì nghi ngờ hôn nhân không thành thật. Lý do là từ lúc lấy cháu gái tôi, người chồng chỉ về Việt Nam võn vẹn có một lần.
Nay cháu tôi muốn chồng khiếu nại, nhưng chồng nó chưa chịu khiếu nại.
Buồn quá nên cháu tôi muốn ly dị vì nghĩ rằng chồng của cháu không thương yêu thật lòng.
Sau ngày ly dị, nếu có một Việt kiều mang quốc tịch Úc thương yêu cháu thật lòng và cưới cháu làm vợ, rồi bảo lãnh cho cháu tôi đi Úc thì có trở ngại gì không" Nếu lấy chồng lần thứ hai thì bao lâu sau cháu tôi mới được chồng bảo lãnh sang Úc theo diện vợ chồng" Nếu mang thai với chồng sau này thì cháu tôi có được đi Úc sớm hơn không"
Trả lời: Một khi người cháu gái ông của ông đã ly dị, thì cô ta có toàn quyền theo luật định là kết hôn với bất cứ người nào mà cô ta yêu thương. Trong trường hợp người chồng tương lai của cô ta là một Việt kiều có quốc tịch Úc, thì người đó có toàn quyền nộp đơn bảo lãnh cho cháu gái của ông đến Úc theo diện vợ chồng.
Tuy nhiên, việc cháu ông phải mất bao lâu mới đến được nước Úc thì điều đó còn tùy thuộc nhiều yếu tố khác; yếu tố thứ nhất là người chồng này phải thực sự yêu thương cô ta thật lòng thì họ mới làm thủ tục bảo lãnh cho cháu của ông được, yếu tố thứ hai hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của Bộ Di Trú, vì nếu họ xét thấy rằng cuộc hôn nhân này không thành thật thì họ sẽ bác đơn.
Nếu đơn xin bị từ chối thì chồng của cô ta có quyền khiếu nại quyết định đó bằng cách kháng án lên “Tòa Kháng Án Di Trú” (the Migration Review Tribunal).
Việc mang thai với người chồng sau này không phải vì thế mà cô ta sẽ được đi Úc sớm hơn thời gian cần thiết để đơn xin được cứu xét.
Theo thiển ý của tôi thì cháu của ông nên thận trọng, và đừng quá hy vọng vào việc là cô ta sẽ được đi Úc nếu cô ta kết hôn với một công dân Úc. Vì như ông đã thấy, người chồng đầu tiên của cô ta cũng là một công dân Úc, nhưng cô ta vẫn bị Bộ Di Trú từ chối đơn xin đến Úc. Ông nên lưu ý rằng nhân viên duyệt xét đơn xin luôn luôn nghi ngờ về những cuộc tình vượt đại dương này, nếu các cuộc tình đó không kinh qua thời gian thử thách và tìm hiểu nhau. ¦
Ông ta cho biết là khi đến phi trường Sydney thì bạn của ông ta sẽ chờ sẵn để nhận thư cùng 2 đôi giày. Ông ta cho con tôi biết tên của bạn ông ta là Toàn như đã được đề trên phong bì của tấm thiệp. Ông ta còn cho biết là ông ta sẽ gọi điện thoại báo cho người bạn biết về chuyến bay của con tôi cùng nhân dạng để bạn của ông ta dễ nhận diện. Ông ta còn nói thêm là nếu bạn của ông không đến phi trường để nhận quà thì con tôi cứ tự nhiên mang về nhà và tặng cho bất cứ ai.
Khi đến phi trường Sydney thì nhân viên quan thuế phát hiện là trong đế và hộp đựng giày có chứa gần 200 gr bạch phiến. Thế là con tôi bị cáo buộc về tội nhập bạch phiến vào Úc. Hiện đang bị giam giữ chờ ngày xét xử.
Con tôi chưa hề bị liên lụy vào bất cứ tội phạm hình sự nào trước đây, điều này thật là oan ức cho con tôi. Xin LS cho biết là việc con tôi hoàn toàn không hay biết là có bạch phiến trong giày thì có phải bị tội hay không"
Trả lời: Trong vụ Bahri Kural (1987). Trong vụ đó, bị cáo cho biết rằng đương sự đã gặp một người lạ mặt bất ngờ tại Phi Trường Yalitski, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta hỏi bị cáo là đi về đâu, thì được bị cáo cho biết là đi Úc. Ông ta bèn nhờ bị cáo mang hộ một gói hàng trong đó có đựng một ấm nấu nước và một vài món đồ khác. Khi đến Úc sẽ có những người khác đến nhận hàng. Ông ta sẽ điện thoại cho những người đó là bị cáo mặc áo màu gì để họ dễ nhận diện.
Bị cáo hoàn toàn không hay biết là dưới đáy của ấm nước có dấu bạch phiến. “Bị cáo khai là đã mở gói hàng và đã xem xét những đồ để trong đó ở phi trường tại Thổ Nhĩ Kỳ mà không phát hiện được bạch phiến ở dưới đáy của bình nấu nước” (The accused claimed that he had opened the parcel and examined its contents at the airport in Turkey without detecting the substance in the base of the samovar).
Vì thế, vấn đề được đặt ra vào lúc xét xử là “ý định phạm tội” (guilty mind = mens rea). Liệu bị cáo, vào lúc nhận gói hàng để chuyển giao, có biết được rằng dưới đáy của bình nước có giấu bạch phiến hay không"
Vị thẩm phán tọa xử đã đưa ra lời hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn như sau:
“Đó là điều hiển nhiên rằng bị cáo đã biết là bị cáo có mang một ấm nước; bởi vì chính bị cáo đã nói cho quý vị biết điều đó. Để thiết định được yếu tố về ý định phạm tội công tố viện phải chứng minh cho quý vị là không còn gì để nghi ngờ rằng bị cáo đã biết được rằng có một vật gì đó ở trong ấm nước, vật gì đó mà bị cáo biết được hoặc là bạch phiến hoặc là một vật gì đó mà bị cáo không biết là vật gì “và tảng lờ đi không thèm để ý đến” (and simply closed his mind to it). Giờ đây, nếu bị cáo biết rằng đó là bạch phiến thì yếu tố về ý định phạm tội đã được thiết lập.
“Công tố viện không cần phải chứng minh rằng bị cáo đã biết đó là bạch phiến; Công Tố Viện chỉ cần chứng minh rằng bị cáo biết được là có vật gì đó ở trong ấm nước đó. . .” (The crown does not have to prove that he knew it was heroin; the Crown only has to prove that he knew there was something in that samovar . . .) Nếu tôi biết là có một vật gì ở trong đó và tôi cứ tảng lờ đi, tôi biết là có cái gì ở trong đó nhưng tôi không cần biết đó là vật gì, quý vị có thể thấy điều đó là hợp lý rằng tôi phải nhận lấy hậu quả nếu vật đó là thứ cấm nhập cảng”.
Bị cáo đã xin phép để được kháng án vì cho rằng thẩm phán tọa xử đã đưa ra “lời hướng dẫn sai lạc cho bồi thẩm đoàn” (misdirection to the jury). Điều thứ nhất, không cần phải “biết chắc” rằng có vật gì đó ở trong ấm nước mà chỉ cần “nghi ngờ” là có vật gì đó trong ấm nước. Điều thứ hai, không cần thiết phải tảng lờ đi đối với vật gì đó ở trong ấm nước mà chỉ cần nghi ngờ vật trong ấm nước có thể là bạch phiến. Tuy nhiên, công tố viện đã cho rằng “đó là lời hướng dẫn sai lạc có lợi cho bị cáo” (it was a misdirection favourable to the applicant).
“Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” (the High Court) bèn từ chối đơn xin phép được kháng án và cho rằng mặc dầu có sự hướng dẫn sai lạc nhưng không vì thế mà cho rằng là có sự xét xử sai lầm.
Như đã trình bày ở trên, bà có thể thấy được rằng “ý định phạm tội” là yếu tố để quyết định liệu con bà có phạm tội như đã bị cáo buộc hay không. Vấn đề liệu con bà có ý định phạm tội vào lúc nhận hàng hay không điều đó sẽ được quyết định bởi bồi thẩm đoàn vào lúc xét xử (nếu con bà đồng ý để được xét xử bởi bồi thẩm đoàn).
Tôi đề nghị bà nên gặp LS để được cố vấn tường tận hơn.
* * *
Hỏi (ông Trường Ngọc Nguyễn): Tôi có một cháu gái ở Việt Nam đã lấy chồng ở tại Adelaide. Chồng cháu đã bảo lãnh cháu theo diện vợ chồng, nhưng đơn bảo lãnh đã bị Bộ Di Trú Úc từ chối vì nghi ngờ hôn nhân không thành thật. Lý do là từ lúc lấy cháu gái tôi, người chồng chỉ về Việt Nam võn vẹn có một lần.
Nay cháu tôi muốn chồng khiếu nại, nhưng chồng nó chưa chịu khiếu nại.
Buồn quá nên cháu tôi muốn ly dị vì nghĩ rằng chồng của cháu không thương yêu thật lòng.
Sau ngày ly dị, nếu có một Việt kiều mang quốc tịch Úc thương yêu cháu thật lòng và cưới cháu làm vợ, rồi bảo lãnh cho cháu tôi đi Úc thì có trở ngại gì không" Nếu lấy chồng lần thứ hai thì bao lâu sau cháu tôi mới được chồng bảo lãnh sang Úc theo diện vợ chồng" Nếu mang thai với chồng sau này thì cháu tôi có được đi Úc sớm hơn không"
Trả lời: Một khi người cháu gái ông của ông đã ly dị, thì cô ta có toàn quyền theo luật định là kết hôn với bất cứ người nào mà cô ta yêu thương. Trong trường hợp người chồng tương lai của cô ta là một Việt kiều có quốc tịch Úc, thì người đó có toàn quyền nộp đơn bảo lãnh cho cháu gái của ông đến Úc theo diện vợ chồng.
Tuy nhiên, việc cháu ông phải mất bao lâu mới đến được nước Úc thì điều đó còn tùy thuộc nhiều yếu tố khác; yếu tố thứ nhất là người chồng này phải thực sự yêu thương cô ta thật lòng thì họ mới làm thủ tục bảo lãnh cho cháu của ông được, yếu tố thứ hai hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của Bộ Di Trú, vì nếu họ xét thấy rằng cuộc hôn nhân này không thành thật thì họ sẽ bác đơn.
Nếu đơn xin bị từ chối thì chồng của cô ta có quyền khiếu nại quyết định đó bằng cách kháng án lên “Tòa Kháng Án Di Trú” (the Migration Review Tribunal).
Việc mang thai với người chồng sau này không phải vì thế mà cô ta sẽ được đi Úc sớm hơn thời gian cần thiết để đơn xin được cứu xét.
Theo thiển ý của tôi thì cháu của ông nên thận trọng, và đừng quá hy vọng vào việc là cô ta sẽ được đi Úc nếu cô ta kết hôn với một công dân Úc. Vì như ông đã thấy, người chồng đầu tiên của cô ta cũng là một công dân Úc, nhưng cô ta vẫn bị Bộ Di Trú từ chối đơn xin đến Úc. Ông nên lưu ý rằng nhân viên duyệt xét đơn xin luôn luôn nghi ngờ về những cuộc tình vượt đại dương này, nếu các cuộc tình đó không kinh qua thời gian thử thách và tìm hiểu nhau. ¦
Gửi ý kiến của bạn