SA MẠC MƯA NHIỀU NHƯNG SYDNEY ÍT MƯA
ÚC ĐẠI LỢI: Nếu mưa không rơi ở khu vực các đập nước của Sydney và khắp miền nam nước Úc, như vậy nó đã đi đâu" Theo ông David Jones, giám đốc Trung tâm Khí hậu Quốc gia, câu trả lời là đông-bắc và miền trung nước Úc (Central Australia), nơi mà dân chúng đang nhận thấy khí hậu thay đổi rất ẩm ướt. Nơi thay đổi nhiều nhất là Giles, một vùng ngoài rìa Sa Mạc Tanami, gần chỗ gặp nhau của South Australia, Western Australia và Northern Australia. Trong gần 50 năm qua, trạm quan sát thời tiết xa xôi này đã chứng kiến lượng mưa của nó gia tăng gấp đôi - từ mức trung bình hàng năm khoảng 150mm lên tới gần 300mm.
Nếu chiều hướng hiện nay tiếp tục, các sự thay đổi sinh thái học sẽ bắt đầu xảy ra - xanh tươi hơn cho khu vực sa mạc này và vùng Kimberley, nhưng lại nâu hơn cho miền nam nước Úc. Theo lời ông Michael McInlvenny, người điều hành trạm thời tiết Giles, bởi vì Giles là một trong những nơi khô ráo nhất trên lục địa này, một sự gia tăng gấp đôi lượng mưa vẫn chưa có một tác động có thể trông thấy được. Thế nhưng Tiến sĩ Peter Kendrick, nhà sinh thái học thuộc Bộ Môi sinh Tây Úc, nói rằng sự gia tăng gấp đôi lượng mưa có một “tác động rất lớn” trong một hệ thống sinh thái như vậy, căn cứ vào hệ động vật và thực vật ở khu vực sa mạc đó đã đáp ứng mạu lẹ với lượng mưa thất thường.
Tiến sĩ Michael Raupach, một khoa học gia của CSIRO và là chủ tịch của Global Carbon Project, mới đây đã đưa ra lời báo động rất đáng sợ từ các hình ảnh chụp được bởi vệ tinh nhân tạo. Nhóm nghiên cứu của ông đã khám phá các vùng đất rất lớn trên lục địa này đang trở nên bớt xanh hơn rất rõ rệt. Ông nói rằng: “Tùy khu vực, chúng tôi đang nhìn thấy nhiều vùng đất trên lục địa này bớt xanh hơn 50 phần trăm. Điều này có nghĩa lục địa này đang chuyển sang mầu nâu, và khuynh hướng này bắt đầu trong cuối thập niên 1990.”
Theo lời giải thích của Tiến sĩ Raupach, thông thường các khu rừng có cơ hội hồi phục với các trận mưa gây lụt lội xảy ra xen kẽ những cơn hạn hán, nhưng điều kiện thời tiết ít mưa của thập niên qua đã không ngơi ngớt. Mặc dù sự phục hồi của cây xanh đã xảy ra trong nhiều nơi, không nơi nào mà thực vật đã mọc trở lại tới mức độ bình thường như trước, giữa các trận hạn hán. Khu vực bị ảnh hưởng trầm trọng nhất dường như là vùng tây-nam của tiểu bang Tây Úc.
Theo tiến sĩ Jones, có lẽ số lượng các chất khí aerosols rất lớn nhả vào bầu khí quyển bởi các quốc gia Á Châu có thể là một nhân tố làm cho lượng mưa gia tăng ở miền trung nước Úc. Một điều chắc chắn là khí hậu của Úc đã thay đổi rất lớn trong nửa thế kỷ qua. Trong một khu vực rộng lớn của lục địa này giữa vùng bờ biển Nullarbor và Kimberley, có một lượng mưa gia tăng trung bình từ 100mm đến 200mm. Tiến sĩ Jones cho biết ở quanh Broome và Wyndham, lượng mưa đã tăng tới 300mm - nhất là trong mùa hè và mùa thu. Trong khi lượng mưa hàng năm của Sydney đã giảm từ 100 đến 200mm một năm và ở Mackay giảm tới 300mm một năm so với thập niên 1950.
Hệ thống thời tiết được biết là các đám mây dầy ở hướng bắc-tây, từ các vùng áp suất thấp ở Kimberley, thường di chuyển ngang qua lục địa này, mang các trận mưa đến miền nam nước Úc làm đầy các đập nước và gây lụt lội. Tiến sĩ Jones nói rằng: “Trong gần thập niên qua, các đám mây bắc-tây này đã hầu như biến mất. Mối liên kết nhiệt đới này đã bị sụp đổ. Kể từ thập niên 1950, kể từ khi nhiệt độ toàn cầu gia tăng cùng với khí aerosols và ozone, một cách đột ngột chúng ta đã nhìn thấy các khuynh hướng lượng mưa rất khác biệt.”