Tôi không nói đến “Chiếc Lư Đồng Mắt Cua” của Nguyễn Tuân. Tôi nói đến một hiện tượng của thế kỷ 20: “cách mạng”. Thế giới chỉ còn vài tháng nữa bước sang thế kỷ 21 và cũng là thiên niên kỷ thứ ba của Công nguyên, nhất là ở Việt Nam dưới chế độ cai trị của Cộng sản người ta vừa làm một lễ kỷ niệm chót cho Cách mạng Tháng tám của thế kỷ này, chúng tôi lại càng muốn nhắc nhở đến cách mạng với nét tô đậm của nó.
Hai tiếng cách mạng rất quý từ cuối thế kỷ trước vì những tư tưởng dân chủ của Jean Jacques Rousseau và Montesquieu, vì cuộc nổi dậy chống chế độ thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và cuộc cách mạnh Pháp lật đổ chế độ bảo hoàng đặt viên đá đầu tiên xây dựng chế độ Cộng Hòa hiện đại của nhân loại. Từ ngữ cách mạng quý giá đến độ trước khi bước sang thế kỷ 20, những tiến bộ về cơ khí đưa đến những phương tiện sản xuất hoàn toàn mới, đã được tặng cho mỹ hiệu “cuộc cách mạng kỹ nghệ”, bởi vì nó đã làm thay đổi cuộc sống, nâng cao trí tuệ của con người.
Sự quý trọng đó được tiếp tục cho đến thập niên đầu của thế kỷ 20, khi Tôn Dật Tiên làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến của nhà Thanh. Thế nhưng chỉ vài năm sau, cách mạng đã có một con đường rẽ. Cố nhiên khi cách mạng đi con đường thẳng tắp, quang minh chính đại, phục vụ quần chúng, phục vụ dân tộc hay nhân loại, đó là thứ quý giá vô song. Nhưng khi nó có một chỗ ngoặt nhằm phục vụ sự tôn sùng cá nhân, nó đã có vấn đề. Tôi muốn nói đến cuộc cách mạng năm 1917 của những người Bôn Sơ Vích ở Nga. Cái xác ướp Lenin nay còn nằm chình ình ở cạnh điện Kremlin là bằng chứng điển hình nhất của chỗ bước ngoặt đó.
Tệ tôn sùng cá nhân đến độ thần thánh hóa con người không phải chuyện mới lạ. Nó đã có từ thời xa xưa nhất của lịch sử nhân loại với các ông vua chuyên chế hà khắc từ thời Kim Tự Tháp Ai Cập. Nhưng khi nó nằm trong tay những người tự xưng là cách mạng, nó gây tai họa. Bởi vì tôn sùng cá nhân là điều kiện cần và đủ để tạo ra chế độ độc tài đảng trị. Từ Nga nó đã di họa cho khắp thế giới. Trong thập niên 30, Quốc Xã của Hitler thành hình ở Đức để xây dựng một chế độ độc tài sắt máu làm bùng nổ Đệ nhị Thế chiến. Sự di họa đó sâu đậm như thế nào"
Mấy tuần trước đây sau vụ một kẻ cầm súng bắn loạn vào đám phụ nữ và trẻ em gốc Do Thái ở Nam California, tôi đã thấy trên TV lãnh tụ của một nhóm Tân Quốc Xã, mặc đồng phục y chang Hitler, mặt non choẹt nhưng để bộ râu Charlot dưới mũi, khi ông ta trả lời phóng viên báo chí. Nếu còn nghi ngờ chút nào về hậu họa của tệ sùng bái cá nhân, các dân tộc Á châu hãy nhìn đến hai cái xác ướp hiện còn nằm ở Bắc Kinh và Hà Nội.
Nhưng tại sao nó thành công để di họa đến như vậy" Lúc đảng Quốc Xã nổi lên ở Đức, cũng là lúc kỹ thuật vô tuyến truyền thanh đạt đến cao độ. Đó là phương tiện tốt nhất để tuyên truyền nhồi sọ. Ngày ngày nó nhồi nhét vào tai người dân, kèm theo những hình ảnh lãnh tụ treo la liệt, những phim ảnh mô tả lãnh tụ đứng nghiêm chào duyệt các đoàn quân SS, thanh niên học sinh áo nâu diễn hành như những người máy bằng thép.
Để chống lại ảnh hưởng của Quốc xã khi nó sắp tấn công, chính cộng sản Nga cũng phải rập theo mô hình tuyên truyền đó. Sau Đệ nhị Thế chiến, Cộng sản đệ tam quốc tế đã lợi dụng phong trào tranh đấu độc lập của các dân tộc bị trị, khiến những phong trào này cũng đi theo mô hình tuyên truyền vận động quần chúng như cộng sản. Vào thời điểm đó, có thể tuyên truyền là phương pháp tốt nhất để đánh lại thực dân. Nhưng vô tình, các phong trào dân tộc cũng bị tiêm nhiễm cả tệ sùng bái cá nhân mà không nghĩ đến cái hậu họa của nó.
Tại sao nó thắng" Những người dân ở Việt Nam không quên những bài diễn văn nẩy lửa của những lãnh tụ nằm an toàn trong bóng tối thời kỳ kháng chiến, những khúc anh hùng ca thanh niên ôm bom ba càng lao vào xe tăng Pháp hay lấy thân người tự nhét vào lỗ châu mai, những bản nhạc “Anh Kim Đồng ơi, anh Kim Đồng” và em bé quàng khăn đỏ hát “Em yêu bác Hồ”. Những bài “cách mạng” đó, những khẩu hiệu tuyên truyền thét ra lửa đó đã được loa phóng thanh ngày đêm ra rả vang lên khắp ngang cùng ngõ hẻm, nhồi sọ người dân đến độ đinh tai nhức óc làm mờ cả trí tuệ con người.
Ở Trung Quốc người ta không quên những vở kịch như Bạch Mao Nữ, những cuốn sách đỏ, những cuộc biểu tình rầm rộ của Hồng Vệ Binh trong cuộc “đại cách mạng văn hóa vô sản”. Các kẻ độc tài khi nắm được quyền lại càng xiết chặt truyền thông để cũng cố địa vị của họ cho thật chắc. Báo chí truyền thanh truyền hình trở thành công cụ tuyên truyền cho lãnh tụ và chế độ, tin tức được cắt xén, xào nấu lại cho đúng khuôn khổ có sẵn của ý thức hệ.
Vậy tại sao cộng sản ngày nay không dùng dến những phương pháp tuyên truyền nhồi sọ đó" Tại sao Trung Quốc không dùng những cuốn sách đỏ để “giải phóng” Đài Loan" Tại sao cộng sản Hà Nội không gọi các em ra ca “Em yêu Bác Hồ” để hấp dẫn đầu tư ngoại quốc, tại sao hết chụp mũ tư bản là bóc lột" Hiển nhiên chuyện nhồi sọ chụp mũ đã hết thời, không còn ai tin nó.
Năm 1999, chắc hẳn không còn ai ngu dại đến độ bắt chước rập khuôn những thủ đoạn mà chính cộng sản đã phải từ bỏ. Chúng tôi muốn nói đến những phương pháp đấu tranh mới.
Hai tiếng cách mạng rất quý từ cuối thế kỷ trước vì những tư tưởng dân chủ của Jean Jacques Rousseau và Montesquieu, vì cuộc nổi dậy chống chế độ thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và cuộc cách mạnh Pháp lật đổ chế độ bảo hoàng đặt viên đá đầu tiên xây dựng chế độ Cộng Hòa hiện đại của nhân loại. Từ ngữ cách mạng quý giá đến độ trước khi bước sang thế kỷ 20, những tiến bộ về cơ khí đưa đến những phương tiện sản xuất hoàn toàn mới, đã được tặng cho mỹ hiệu “cuộc cách mạng kỹ nghệ”, bởi vì nó đã làm thay đổi cuộc sống, nâng cao trí tuệ của con người.
Sự quý trọng đó được tiếp tục cho đến thập niên đầu của thế kỷ 20, khi Tôn Dật Tiên làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến của nhà Thanh. Thế nhưng chỉ vài năm sau, cách mạng đã có một con đường rẽ. Cố nhiên khi cách mạng đi con đường thẳng tắp, quang minh chính đại, phục vụ quần chúng, phục vụ dân tộc hay nhân loại, đó là thứ quý giá vô song. Nhưng khi nó có một chỗ ngoặt nhằm phục vụ sự tôn sùng cá nhân, nó đã có vấn đề. Tôi muốn nói đến cuộc cách mạng năm 1917 của những người Bôn Sơ Vích ở Nga. Cái xác ướp Lenin nay còn nằm chình ình ở cạnh điện Kremlin là bằng chứng điển hình nhất của chỗ bước ngoặt đó.
Tệ tôn sùng cá nhân đến độ thần thánh hóa con người không phải chuyện mới lạ. Nó đã có từ thời xa xưa nhất của lịch sử nhân loại với các ông vua chuyên chế hà khắc từ thời Kim Tự Tháp Ai Cập. Nhưng khi nó nằm trong tay những người tự xưng là cách mạng, nó gây tai họa. Bởi vì tôn sùng cá nhân là điều kiện cần và đủ để tạo ra chế độ độc tài đảng trị. Từ Nga nó đã di họa cho khắp thế giới. Trong thập niên 30, Quốc Xã của Hitler thành hình ở Đức để xây dựng một chế độ độc tài sắt máu làm bùng nổ Đệ nhị Thế chiến. Sự di họa đó sâu đậm như thế nào"
Mấy tuần trước đây sau vụ một kẻ cầm súng bắn loạn vào đám phụ nữ và trẻ em gốc Do Thái ở Nam California, tôi đã thấy trên TV lãnh tụ của một nhóm Tân Quốc Xã, mặc đồng phục y chang Hitler, mặt non choẹt nhưng để bộ râu Charlot dưới mũi, khi ông ta trả lời phóng viên báo chí. Nếu còn nghi ngờ chút nào về hậu họa của tệ sùng bái cá nhân, các dân tộc Á châu hãy nhìn đến hai cái xác ướp hiện còn nằm ở Bắc Kinh và Hà Nội.
Nhưng tại sao nó thành công để di họa đến như vậy" Lúc đảng Quốc Xã nổi lên ở Đức, cũng là lúc kỹ thuật vô tuyến truyền thanh đạt đến cao độ. Đó là phương tiện tốt nhất để tuyên truyền nhồi sọ. Ngày ngày nó nhồi nhét vào tai người dân, kèm theo những hình ảnh lãnh tụ treo la liệt, những phim ảnh mô tả lãnh tụ đứng nghiêm chào duyệt các đoàn quân SS, thanh niên học sinh áo nâu diễn hành như những người máy bằng thép.
Để chống lại ảnh hưởng của Quốc xã khi nó sắp tấn công, chính cộng sản Nga cũng phải rập theo mô hình tuyên truyền đó. Sau Đệ nhị Thế chiến, Cộng sản đệ tam quốc tế đã lợi dụng phong trào tranh đấu độc lập của các dân tộc bị trị, khiến những phong trào này cũng đi theo mô hình tuyên truyền vận động quần chúng như cộng sản. Vào thời điểm đó, có thể tuyên truyền là phương pháp tốt nhất để đánh lại thực dân. Nhưng vô tình, các phong trào dân tộc cũng bị tiêm nhiễm cả tệ sùng bái cá nhân mà không nghĩ đến cái hậu họa của nó.
Tại sao nó thắng" Những người dân ở Việt Nam không quên những bài diễn văn nẩy lửa của những lãnh tụ nằm an toàn trong bóng tối thời kỳ kháng chiến, những khúc anh hùng ca thanh niên ôm bom ba càng lao vào xe tăng Pháp hay lấy thân người tự nhét vào lỗ châu mai, những bản nhạc “Anh Kim Đồng ơi, anh Kim Đồng” và em bé quàng khăn đỏ hát “Em yêu bác Hồ”. Những bài “cách mạng” đó, những khẩu hiệu tuyên truyền thét ra lửa đó đã được loa phóng thanh ngày đêm ra rả vang lên khắp ngang cùng ngõ hẻm, nhồi sọ người dân đến độ đinh tai nhức óc làm mờ cả trí tuệ con người.
Ở Trung Quốc người ta không quên những vở kịch như Bạch Mao Nữ, những cuốn sách đỏ, những cuộc biểu tình rầm rộ của Hồng Vệ Binh trong cuộc “đại cách mạng văn hóa vô sản”. Các kẻ độc tài khi nắm được quyền lại càng xiết chặt truyền thông để cũng cố địa vị của họ cho thật chắc. Báo chí truyền thanh truyền hình trở thành công cụ tuyên truyền cho lãnh tụ và chế độ, tin tức được cắt xén, xào nấu lại cho đúng khuôn khổ có sẵn của ý thức hệ.
Vậy tại sao cộng sản ngày nay không dùng dến những phương pháp tuyên truyền nhồi sọ đó" Tại sao Trung Quốc không dùng những cuốn sách đỏ để “giải phóng” Đài Loan" Tại sao cộng sản Hà Nội không gọi các em ra ca “Em yêu Bác Hồ” để hấp dẫn đầu tư ngoại quốc, tại sao hết chụp mũ tư bản là bóc lột" Hiển nhiên chuyện nhồi sọ chụp mũ đã hết thời, không còn ai tin nó.
Năm 1999, chắc hẳn không còn ai ngu dại đến độ bắt chước rập khuôn những thủ đoạn mà chính cộng sản đã phải từ bỏ. Chúng tôi muốn nói đến những phương pháp đấu tranh mới.
Gửi ý kiến của bạn