Từ đầu thập niên 90, khi kinh tế thị trường lan cả vào cả ngành giáo dục, nhiều trường đại học ở Hà Nội đã tìm cách tăng thêm doanh thu bằng phương thức liên kết đào tạo với nhiều trường ở Sài Gòn và một số tỉnh phía Nam, mặc dù tại các nơi này có nhiều trường cùng ngành nghề. Để có thể thực hiện dễ dàng phương thức liên kết, các trường đại học ở phía Bắc thường chọn “đối tác” là một trường Cao đẳng ở địa phương và đưa ra một số giao ước như: phía Bắc trách nhiệm giảng dạy, cấp bằng, phía Nam lo tuyển sinh và thu tiền, địa điểm học. Tỷ lệ chia tiền tùy theo số lượng sinh viên ghi danh theo học và sự thỏa thuận giữa hai trường. Trong việc hợp tác này, việc dạy và học rất tà tà, sinh viên được nghỉ học dài dài như ghi nhận sau đây của báo Sài Gòn:
Trường Đại học Thương mại Hà Nội là một trong những trường đổ bộ vào Nam khá sớm. Năm 1991, trường này đã bắt tay với trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại TP.HCM chiêu sinh đào tạo các ngành được xem như thời thượng lúc bấy giờ như: quản trị kinh doanh, kế toán và từ đó đến nay có khoảng 4 ngàn sinh viên tốt nghiệp, nghĩa là bình quân hai năm lại có 1 ngàn cử nhân ra trường.
Trong thực tế, lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm có lẽ còn cao hơn nếu như sinh viên của trường không bị nghỉ học dài hạn. Trong một lần ghé thăm cơ sở đào tạo của trường, đập vào mắt chúng tôi là một thông báo lững lờ: “Hôm nay lớp K6-Quản trị Kinh Doanh nghỉ” mà không có lời hẹn ước nào cho ngày đi học lại. Hơn nửa tháng sau, lớp K6 Quản trị Kinh doanh này được học tiếp một buổi (ngày 20-9) để rồi hai ngày sau, sinh viên lại nhận được một thông báo quen thuộc: Lớp K6 Quản trị Kinh doanh nghỉ đến ngày 25-10 học lại bình thường. Còn lớp K6 Kế toán thì nghỉ đến 25-11 học lại bình thường. Một sinh viên lớp K6 Kế toán cho biết: Đây là nỗi ám ảnh thường trực của chúng tôi, hôm nào có thông báo nghỉ kèm theo thời gian học lại là may mắn lắm rồi. Còn không, phải liên tục đến trường để chờ được học. Trong vòng hai năm đầu, các sinh viên khoa Quản trị Kinh doanh học 25 môn (1.305 tiết), nhưng từ tháng 8-1999 sinh viên chỉ học được 270 tiết (5 môn) nghĩa là lúc thì thầy dạy dồn dập, lúc thì vừa học vừa chơi. Và trong ba tháng còn lại của năm 1999, liệu trường có bảo đảm được đúng tiến độ giảng dạy như đã đề ra.
Lý giải điều này, ông Lê Văn Triều-phụ trách khối đào tạo tại chức trường Cao đẳng Kinh tế đối ngoại cho biết: Đây chỉ là cơ sở để trường Đại học Thương mại Hà Nội thuê mướn đào tạo. Việc trễ nải, èo uột trong việc học của sinh viên các năm cuối là do giáo viên ở Hà Nội đảm trách chưa vào dạy, nên một số môn phụ phải nghỉ theo. Một trường khác cũng đến từ phía Bắc chiêu sinh rầm rộ là Đại học Bách Khoa Hà Nội liên kết với trường điện toán Cadasa TP đào tạo bằng cử nhân cao đẳng các ngành tin học, quản trị kinh doanh. Các sinh viên năm cuối của trường này không chỉ long đong giờ học, mà còn phải liên tục di chuyển địa điểm. Một sinh viên khóa 4 vừa tốt nghiệp cho biết: Học kỳ đầu, sinh viên được học ở trường Cao đẳng Sư phạm, sau đó chuyển qua học ở nhà văn hóa Quận 10, rồi Nhà Thiếu nhi thành phố, trung tâm Dạy nghề Bình Thạnh. Khi chúng tôi vào học có hai lớp buổi sáng, nhưng sang năm thứ hai lại gộp chung một lớp với hơn 150 người. Có khi chúng tôi chỉ được học một buổi một tuần, liên tục như thế vì thế giáo viên.
Bạn,
Cũng theo ghi nhận trên, chuyện sinh viên hết học cơ sở này đến cơ sở khác do tình trạng “ít chỗ học, nhiều sinh viên” như hiện nay: kinh phí thuê mướn quá cao nên các trường cũng phải luôn “hạch toán” chỗ học nào cho rẻ. Và phía sau sự toan tính đầy tính thị trường trong hình thức liên kết, chỉ có sinh viên là bị thiệt thòi!