Có nhiều người không đồng ý việc ông Clinton đi thăm Việt Nam, vì theo họ, thời cơ lý tưởng chưa đến cho một tổng thống Mỹ ghé Việt Nam, và chuyến đi có thể được giới lãnh đạo Việt Nam lợi dụng tuyên truyền như là một sự cổ võ cho chế độ Cộng sản hiện hành ở Việt Nam. Nhưng người ủng hộ cho chuyến đi thì nhiều hơn, và theo những người này, ông Clinton nên viếng thăm chính thức Việt Nam để lật một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước, và chấm dứt sự chia rẽ nghi kỵ giữa hai dân tộc. Để bình quân giữa hai quan điểm này, ông Clinton đã cân nhắc rất kỹ, và điều này thể hiện qua thời điểm và không gian khởi hành của chuyến đi. Thay vì đi thẳng từ Mỹ, ông đi từ Mỹ đến Brunei để dự hội nghị kinh tế rồi mới ghé qua Hà Nội, làm ra vẻ như một chuyến ghé ngang trên đường đi công tác chính. Thay vì đi trước ngày bầu cử, ông chọn đi sau ngày bầu cử, để đem lại một ấn tượng người đang trên đường từ nhiệm. Những việc làm này, chắc chắn là có chủ đích, cũng góp phần xoa dịu phần nào những người Mỹ không thích Mỹ bang giao với Việt Nam, và làm hài lòng những người ủng hộ ông Clinton.
Tuy nhiên, dù đồng ý hay không đồng ý với chuyến đi, phần đông quan sát viên nghĩ sự có mặt của ông Clinton sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, nhất là tuổi trẻ Việt Nam, những người lớn lên sau thời chiến tranh. Có người ví ý nghĩa chuyến viếng thăm của ông Clinton như chuyến công du của Tổng thống Nixon sang Trung Quốc vào năm 1972. Tác dụng đầu tiên là, nói như một số quan sát viên quốc tế, cho thế giới thấy Việt Nam là một quốc gia đầy tiềm năng, với những con người năng động, thông minh, thân thiện, chứ Việt Nam không phải là một cuộc chiến; hay nói theo một quảng cáo của Hàng Không Việt Nam là "Sau cơn mưa, trời lại sáng"; hay theo cụ Nguyễn Du, qua trích dẫn của ông Clinton, "Sen tàn cúc lại nở hoa, sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân." Có thể nói, chưa lúc nào trong những năm gần đây, tin tức về Việt Nam lại đầy rẫy trên các mặt báo trên thế giới. Tại Úc, trong hơn 10 năm nay, chưa lúc nào mà tin tức về Việt Nam xuất hiện liên tục cả tuần lễ trước, trong, và sau chuyến viếng thăm của ông Clinton. Sự "phô trương" này, về lâu về dài, sẽ nâng cao thanh thế [dù khiêm tốn] của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chuyến công du Việt Nam của ông Clinton đã để lại một dấu ấn sâu đậm và đầy ấn tượng trong hai nhiệm kỳ làm tổng thống của ông. Có thể nói, chuyến công du Việt Nam vừa qua là một chuyến đi thành công nhất trong hơn 70 cuộc viếng thăm hữu nghị mà ông đã công tác trong thời gian 8 năm qua. Ông đã thực hiện được hoài bão của mình là ghé thăm xứ sở mà ông có nhiều thiện cảm trong cũng như sau chiến tranh. Ông đã có cơ hội nói chuyện với giới trẻ Việt Nam, những người mà ông tin tưởng sẽ lèo lái tương lai Việt Nam vào một con đường sáng sủa hơn; ông được dịp, qua truyền hình trực tiếp, nói chuyện và tâm sự với gần 80 triệu dân về tương lai Việt Nam và thậm chí nói các vấn đề tế nhị như nhân quyền, dân chủ, và tự do ngôn luận; ông được gặp gỡ những người Việt bình thường trên hè phố, trong quán ăn, trong khách sạn ...Ông không ngỏ lời xin lỗi về vai trò của Mỹ trong thời chiến tranh. Tóm lại, ông đã thực hiện được tất cả những mục tiêu của mình trong chuyến đi.
Nhiều nhà bình luận thời sự đã nói nhiều về ý nghĩa chính trị của chuyến công du, nhưng có một điều rất ít được ai nhắc đến: đó là Mỹ đã chính thức mở một cánh cửa giáo dục và khoa học cho tuổi trẻ Việt Nam. Hiện nay, số lượng sinh viên từ Việt Nam theo học ở các đại học Mỹ vẫn còn khiêm tốn (dưới 2000 sinh viên). Tuy nhiên, ông Clinton vừa tuyên bố đã dành ra một ngân sách cho khoảng 100 nghiên cứu sinh hàng năm sang Mỹ học hành và nghiên cứu. Đây là một con số không nhỏ. Thực ra, theo ông Clinton, chương trình trao đổi giáo dục Mỹ dành cho Việt Nam là một trong những chương trình trao đổi lớn nhất của chính phủ Mỹ. Trong bài diễn văn, ông Clinton cũng không quên ca ngợi những thành tích trong toán học và khoa học của sinh viên và khoa học gia Việt Nam ở Mỹ cũng như ở Việt Nam. Điều này chứng tỏ người Mỹ thấy được tiềm năng của tuổi trẻ Việt Nam trong việc cống hiến cho khoa học.
Nhiều hợp tác nghiên cứu khoa học trong tương lai sẽ được tiến hành dễ dàng hơn. Một trong những nghiên cứu mà người viết bài này mong thấy Mỹ giúp đỡ là vấn đề chất độc màu da cam ở Việt Nam. Trong thời gian chiến tranh, Không quân Mỹ đã rải một số lượng khổng lồ (khoảng 49,5 triệu lít) chất độc màu da cam, trong đó có chứa dioxin, xuống miền Trung Việt Nam. Dioxin là một hóa chất được coi là độc hại nhất trên hành tinh này. Dioxin có thể gây ra ung thư, dị thai, và một số bệnh hiểm nghèo khác. Trong khi lính Mỹ, những người rải chất độc, được bồi thường thiệt hại về bệnh tật do dioxin gây ra, thì cả triệu nạn nhân (kể cả khoảng 150 ngàn trẻ em) ở Việt Nam không được trợ giúp gì! Phía Mỹ đòi hỏi phải có bằng chứng khoa học về ảnh hưởng của dioxin trong người Việt thì họ mới có thể bàn chuyện bồi thường. Nhưng muốn có bằng chứng khoa học thì các nhà khoa học cần phải có kinh phí mới có thể thu thập và phân tích dữ kiện. Họ cần sự giúp đỡ từ phía Mỹ. Và tôi nghĩa, trên phương diện luân lý cũng như trách nhiệm, Mỹ cần giúp đỡ Việt Nam trong lĩnh vực này, và phải bảo đảm sự giúp đỡ đó đến tận tay nạn nhân.
Chuyến công du Việt Nam vừa qua chắc chắn sẽ để lại cho gia đình ông Clinton và phái đoàn nhiều kỷ niệm khó quên. Hình như chưa có nơi nào trên thế giới ông Clinton ghé qua được dân chúng tiếp đón một cách nhiệt tình như ở Việt Nam. Thật vậy, ông Sandy Berger, Cố vấn An ninh Quốc gia, một trong những người tháp tùng theo Tổng thống, cũng nói trong thời gian qua ông đã đi thăm trên 75 nước trên thế giới, nhưng chưa có nơi nào dân chúng lại tiếp đón niềm nở và tự nhiên như ở Việt Nam. Bởi thế, không ai ngạc nhiên khi thấy ông Clinton tỏ ra buồn bã thật sự khi phải rời Sài Gòn để về lại Mỹ hôm Chúa Nhật. Ông nói một cách lưu luyến: "Tôi muốn ở đây trọn ngày".
Nhìn hàng ngàn người dân bình thường trong nước, trong đó phần lớn là thanh niên trẻ tuổi, tôi cảm thấy vừa xúc động, vừa tự hào về văn hóa hiếu khách của người Việt chúng ta. Sự tiếp đón nồng hậu còn cho thấy đồng bào ở trong nước muốn đáp nghĩa ông Clinton, một người mà phần đông dân chúng coi như là một người bạn, người có thiện chí với Việt Nam. Dù không được thông báo rộng rãi và cụ thể trên báo chí và hệ thống truyền thanh, nhưng dân chúng đã bất chấp mọi phiền hà, nô nức đứng hai bên đường chào đón phái đoàn của ông Clinton.Tôi chưa thấy một cuộc tiếp đón nào bộc phát một cách tự nhiên như thế ở Việt Nam, kể cả cho các vị lãnh đạo Việt Nam và khối xã hội chủ nghĩa. Có thể làm một tiên đoán không sai rằng cảm tình mà dân chúng Việt Nam đã dành cho ông Clinton nồng hậu hơn nhiều so với ông Putin khi ông này sang thăm Việt Nam vào năm tới đây.
Và ông Clinton đã đối đãi một cách rất lịch sự, có văn hóa với Việt Nam. Hai bài diễn văn đọc tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Phủ Chủ tịch, đã được khảo cứu rất công phu, cho thấy ông Clinton - nếu không rất am hiểu thì cũng có công tìm hiểu công phu - về về lịch sử, văn hóa, văn học, và sở thích của người Việt Nam. Bài diễn văn được soạn thảo rất lịch sự. Chẳng hạn như khi đề cập đến các vấn đề tế nhị như nhân quyền và dân chủ, ông dùng cụm từ "Theo kinh nghiệm của chúng tôi" thay vì [ông cũng có thể] nói "Chúng tôi cho rằng". Ông còn nhấn mạnh là ông không có ý áp đặt những ý tưởng này lên nước chủ nhà. Tưởng không còn lời lẽ nào lịch sự và khéo léo hơn!
Đáp lại những lời ngoại giao và tích cực của ông Clinton, ông Lê Khả Phiêu, thay vì nhìn về tương lai, lại lải nhải những luận điệu giáo điều cũ rích, những cụm từ "biết rồi, khổ lắm, nói mãi", như đòi hỏi nhân dân các nước khác phải tôn trọng quyền lựa chọn của dân Việt Nam. Lựa chọn nào" Theo ông Phiêu, đó là: "Chủ nghĩa xã hội là tương lai của Việt Nam." Thực ra, dân Việt Nam có bao giờ chọn chủ nghĩa này; sự kiện dân chúng nồng nhiệt chào đón ông Clinton là một cách từ chối hùng hồn cho những gì ông Phiêu nói. Quả vậy, so với những lời nói có văn hoá của ông Clinton, những lời phát biểu của ông Phiêu cực kỳ trơ trẽn, lạc điệu, vô duyên, và là một vết nhơ trong văn hóa ngoại giao Việt Nam. Những ai còn quan tâm đến Việt Nam ắt phải cảm thấy xấu hổ cho ông Lê Khả Phiêu khi ông tỏ thái độ hằn học, thiếu văn hóa, mất lịch sự đối với một người khách quí và có thiện cảm với Việt Nam như ông Clinton. Hình như ông Phiêu không học được phong cách ngoại giao lịch thiệp khôn ngoan của người tiền nhiệm là ông Hồ Chí Minh trong việc giao tiếp với người nước ngoài. Hi vọng ông Clinton nhận thức được rằng những gì ông Lê Khả Phiêu nói không đại diện cho dân Việt, không phản ánh văn hóa hiếu khách của người Việt.
Nhưng qua thái độ của ông Lê Khả Phiêu, người ta cũng có thể nhìn một cách tích cực hơn: Tức là, so với những đồng nghiệp có học vấn của ông trong Chính phủ (như ông Phan Văn Khải) hay Quốc hội (ông Trần Đức Lương), những người tỏ ra rất lịch sự với khách, người ta sẽ thấy những giáo điều của Đảng trở thành quá lỗi thời, cần thay đổi. Và học vấn là vũ khí hữu hiệu nhất để thay đổi những giáo điều đó. Hi vọng rằng những người Việt trẻ tuổi mà ông Clinton đã tiếp xúc sẽ làm công việc cách tân đó.
Hơn 30 năm về trước (năm 1967), ông Hồ Chí Minh từng muốn có một cuộc viếng thăm chính thức của một tổng thống Mỹ, nhưng ước nguyện đó không thành. Ngày nay, Nhà nước Việt Nam có cơ hội trải thảm đỏ nghênh tiếp Tổng thống Mỹ và phái đoàn của ông ta sang thăm Việt Nam. Chuyến đi của ông Clinton do đó thể hiện sự quay trở lại của người Mỹ, và lần này với một thiện chí và hoàn cảnh tốt đẹp hơn lần trước.
Theo tiêu chuẩn của tự do dân chủ ngày nay, không ai phủ nhận rằng Việt Nam có vấn đề về chính trị. Nhưng sự không đồng ý với hệ thống chính trị của một quốc gia không có nghĩa là người dân trong quốc gia đó không cần được giúp đỡ hay quan tâm đến. Sự có mặt của ông Clinton, một lãnh tụ tinh thần của thế giới tự do, tại Việt Nam đã nói lên mối quan tâm đó. Ông Clinton đã đem lại một luồng gió mới cho Việt Nam, một niềm hy vọng cho giới trẻ Việt Nam, và thắt chặt mối bang giao giữa hai nước cũng như quảng bá Việt Nam cho thế giới bên ngoài.
Nguyễn Khiêm Sydney, Australia