Năm 1998, xuất cảng toàn cầu của Việt Nam lên tới 1.4 tỉ đôla, trong đó hàng dệt và quần áo là chính yếu. Xuất cảng quần áo chiếm tới 90% tổng số trị giá [xuất cảng] về lãnh vực may mặc.
Theo Centre of the Economic Observation of Textiles (CTCOE) có trụ sở ở Paris, xuất cảng hàng dệt của Việt Nam, đụng phải sự suy thoái về kinh tế Á Châu trong vài năm gần đây, nhưng đang có mức tăng trưởng ngắn hạn.
Việt Nam có 77 triệu dân cư và năm 1999 Tổng Sản Luợng Quốc Gia (GDP) tăng 4.1% cùng với mức lạm phát 6.1%.
Từ năm 1997, các nhà sản xuất áo quần ở Việt Nam phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ nước láng giềng mà các nước đó đã kiếm lợi đuợc nhờ sự tiền tệ mất giá. Hơn nữa, do ảnh huởng cuộc khủng hoảng Á Châu, xuất cảng của Việt Nam tới các quốc gia Á Châu đã bị lỗ lã vì nhu cầu giảm xuống.
Trong việc tìm kiếm những thị truờng mới, Việt nam đã nhắm vào Liên Bang Aâu Châu như là thị truờng chính để xuất cảng quần áo. Thật vậy, gần một nửa hàng xuất cảng quần áo của Việt Nam chủ yếu tới Aâu Châu.
Những nơi hàng may mặc của Việt Nam xuất cảng vào ở Liên Bang Aâu Châu - năm 1988 là:
Vào Đức 47%, Pháp 15%, Hòa Lan 11%, Anh 7%, Ý 5%, các nuớc khác 15%.
Các loại hàng may mặc chính đuợc sản xuất ở Việt Nam là sơ mi, quần tây dài, cà vạt, áo lạnh, quần áo thể thao và vớ. Các hãng do tư nhân làm chủ, sản xuất hàng may mặc nhiều hơn các nhà maý quốc doanh. Công nhân dư thừa, có chất luợng và rẻ, điều này đã lôi cuốn các nhà đầu tư ngoại quốc.
Theo Werner International, giá giờ cho người làm công ở Việt Nam chỉ 0.22 đôla/giờ. So sánh với mức lương ở một số quốc gia xuất cảng khác ở Á Châu :
Việt Nam 0.22 $US/ giờ
Trung Quốc: 0.43 $US/ giờ
Nam Hàn: 2.69 $US/ giờ
Đài Loan: 4.68 $US/ giờ
Theo Bộ Đầu Tư và Kế Hoạch của Việt Nam, gần 40% hàng xuất cảng quần áo được điều hành và trả tiền bởi các hãng ngoại quốc. Vào năm 1998 có 147 công ty trong nuớc được tài trợ do tiền vốn chính yếu từ Đài Loan, Nam Hàn, Hồng Kông và Nhật. 147 công ty này ở Việt Nam chiếm 20% lãnh vực may mặc của toàn cầu.