Con hơn cha là nhà có phúc. Bush 43 quả hơn xa Bush 41, ít nhất là về đối ngoại…
Mười lăm năm trước, số phận Liên bang Xô viết và sự nghiệp của Mikhael Gorbachev nguy kịch như chỉ treo mành. Lúc đó, Tổng thống George H. Bush (Bush 41) nghĩ sao"
Ông cho là mình có thể tin được Gorbachev và muốn giúp Gorby quý mến cơ hội gìn giữ sự vẹn toàn của Liên xô. Lý do: nếu đế quốc này tan rã, kho võ khí chiến lược có thể rơi vào tay những kẻ không đáng tin. Một lý luận đầy tính thận trọng. Vả lại, thỏa hiệp với một lãnh tụ đầy quyền uy - dù không do dân bầu lên - cũng góp phần bảo vệ được sự ổn định trong quan hệ quốc tế, còn hơn là mở tung trăm ngàn vấn đề trong khối Xô viết.
Đã thế, vị tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ còn tiếp tục chánh sách được nhiều vị tiền nhiệm theo đuổi, kể từ Franklin Roosevelt: các nước nhược tiểu nên hy sinh cho nhu cầu ổn định giữa các đại cường. Vì vậy, chính quyền Bush 41 kín đáo thuyết phục các nước trong quỹ đạo Xô viết là đừng dại dột tự sát với chủ nghĩa quốc gia dân tộc của mình. Nghĩa là đừng đòi độc lập với Liên xô. Ông Bush cha không muốn Liên xô tan rã và rất ngại phong trào ly khai bùng nổ kể từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ. Ông có vẻ khôn ngoan hay ít nhất là cẩn trọng hơn vị tiền nhiệm là Ronald Regan, người đã kêu gọi Gorbachev kéo xập bức tường ô nhục này.
Về sau, đảng Cộng hòa còn khoe rằng Bush 41 có góp phần kết thúc Chiến tranh lạnh. Thực ra, ông ta chỉ kết thúc chiến tranh lạnh một cách vô tình - trong cả hai ý nghĩa. Bất ngờ và bất nhân.
Tháng Tám năm 1991, khi Liên xô hấp hối và Gorbachev trôi xuống cửa sau vào lịch sử, George H. Bush đã tới Thủ đô Kiev đọc một bài diễn văn gây thất vọng cho dân Ukraine. Bài diễn văn được gọi là "gà chết" kêu gọi dân Ukraine đừng dại dột đòi độc lập vì tinh thần quốc gia dân tộc của mình. Hãy nhớ lại mà xem: bốn tháng trước khi Liên xô sụp đổ, lãnh tụ của đệ nhất siêu cường dân chủ còn yêu cầu dân Ukraine tạm hy sinh nguyện vọng ấp ủ từ ba thế kỷ là giành lại quyền tự chủ. Dân Ukraine không nghe lời khuyên của Bush 41: vài tháng sau, họ biểu tình và biểu quyết ủng hộ việc tách ra khỏi Liên bang Xô viết.
Năm ấy, Hoa Kỳ mất một cơ hội sát cánh cùng một quốc gia có vị trí chiến lược tại Đông Âu và vì vậy không mấy được các nước Đông Âu khác tin tưởng. Rốt cuộc, họ nghĩ là nhân danh một sự ổn định mơ hồ nào đó, các đại cường vẫn cố thỏa hiệp với nhau. Y như Hoa Kỳ thời Richard Nixon từng thỏa hiệp với Trung Quốc và hy sinh miền Nam Việt Nam cho những mục tiêu sâu xa hay lớn lao hơn mà nạn nhân trong cuộc không thể biết được.
Cũng vẫn chính quyền Bush 41 ấy, về sau còn tung ra khẩu hiệu "trật tự mới của thế giới" như một nhãn hiệu đẹp dán lên một cái chai rỗng. Trật tự ấy là một sự hỗn loạn và Liên bang Nga kế vị Liên bang Xô viết cứ teo tóp suy sụp dần… Chỉ có lãnh đạo Hà Nội thì vồ lấy khẩu hiệu ấy để cảnh báo về ý đồ "diễn biến hòa bình", và nhiều nhà bình luận bên ngoài thì gật gù nghiền ngẫm sự khôn ngoan đã từng thấy trên vỉa hè Saigon trước 1975, rằng "Mỹ nó đã có kế hoạch rồi", hoặc "Mỹ nó chẳng bao giờ bỏ rơi miền Nam"….
Nước Mỹ khi đó thực ra bị bất ngờ. Bị tự kỷ ám thị, Hoa Kỳ khi ấy không mấy tin rằng Liên xô có thể sụp đổ.
Trải qua nhiều thập niên, chẳng những lượng định sai về tình tình thực tế của khối Xô viết và các nước cộng sản nói chung, Trung ương Tình báo CIA và giới chức ngoại giao Mỹ còn chi phối cả đường lối ứng xử của Hoa Kỳ với Đế quốc Liên xô, căn cứ trên sự lượng giá sai lạc của họ. Duy nhất có một người lại đơn giản tin vào một nguyên tắc gần với đạo lý hơn là dịa dư chiến lược, là Ronald Reagan với câu nói bất hủ, rằng Liên xô là một đế quốc ác độc, nên ông theo đuổi chánh sách thi đua đầy tính đối đầu hơn là hòa dịu. Chánh sách ấy khiến Liên xô hụt hơi vì bị xuất huyết và tự sụp đổ dưới những vấn đề chồng chất do chế độ cộng sản gây ra cho nước Nga.
Mười lăm năm sau…. George W. Bush lên làm tổng thống và từ bỏ đường lối thỏa hiệp cố hữu. Đa số giới chức ngoại giao - dù thuộc đảng Cộng hòa hay công thần của triều đại Bush 41 - đều cho là Bush 43 theo đuổi một đường lối đối ngoại quá hung hăng và đầy rủi ro. Nhân vật tiêu biểu cho quan điểm khôn ngoan cố hữu đó là cựu Ngoại trưởng Colin Powell cuối cùng cũng ngậm ngùi ra đi, được mời ra đi, khi ông Bush thành lập nội các mới cho nhiệm kỳ hai. Xu hướng ngoại giao cổ điển ấy vẫn còn, qua các đòn ngầm tung ra để đánh bại John Bolton trong chức vụ Đại sứ tại Liên hiệp quốc.
Thực ra, từ cuối năm 2003, tại cung Whitehall của nước Anh, Geroge W. Bush đã nói rõ lập trường của mình, sau này được trình bày một cách hệ thống trong bài diễn văn tái nhập chức và bài diễn văn về Tình hình Liên bang vào đầu năm nay. Trong quá khứ, các nước Tây phương đã lầm lẫn khi thỏa hiệp với các chế độ độc tài vì nhu cầu gọi là "ổn định bang giao quốc tế". Đó là một sự lầm lẫn vì chẳng ổn định được gì, mà còn là một điều bất nhân vì hy sinh quyền tự do dân chủ của nhiều dân tộc trên thế giới. Ngược lại, ông chủ trương là an ninh của Hoa Kỳ - quyền lợi Mỹ - gắn liền với quyền tự do của các dân tộc khác. Từ chủ trương ấy, ý niệm tự do dân chủ có sức mạnh giải phóng và trở thành một phần then chốt trong sách lược đối ngoại của chính quyền ông.
Ban đầu, người ta lầm tưởng rằng Bush vừa phát minh ra một lý luận mới để biện minh cho sự can thiệp vào Iraq - hoặc cả Trung Đông hay khối Hồi giáo - vì loại mục tiêu thiết thực và tầm thường, như dầu khí chẳng hạn. Ban đầu, người ta cho rằng diệt trừ khủng bố hoặc phát huy tự do dân chủ nhân quyền, v.v… chỉ là cái cớ của Mỹ.
Bây giờ, người ta mới hiểu ra là ông Bush này nói thật, và đã nói là làm, sẵn sàng trả mọi giá để làm cho kỳ được. Người ta thấy điều ấy khi Ukraine rồi Lebanon, Kyrgyzstan, bị chấn động bởi cuộc cách mạng dân chủ. Người ta càng thấy điều ấy khi Tổng thống Bush thăm viếng Âu châu nhân dịp kỷ niệm 60 năm lễ Chiến thắng tại Âu châu.
Ông tới Cộng hòa Latvia, một trong ba nước bị Liên xô thôn tính sau Thế chiến II và từng được Bush 41 khuyên can là đừng vội đòi độc lập mà thành tự sát. Ông nói ngôn ngữ khác hẳn thân phụ và còn đi xa hơn thế: như đã gián tiếp đề cập trong bài diễn văn năm 2003 lại Anh, ông Bush công nhận sự lầm lẫn của Hoa Kỳ và Anh quốc khi thỏa hiệp với Stalin khiến phân nửa Âu châu bị ách độc tài cộng sản trong phân nửa thế kỷ.
Những ai cho rằng hiệp định Yalta 1945 hay hiệp định Tehran 1943 nhằm chia đôi thế giới thành hai khối là sự thỏa hiệp xuất phát từ đòi hỏi thực tế của tình hình khi đó có lẽ đã đánh giá sai thực tế, một điều rất đáng tiếc. Nhưng đáng buồn hơn nữa là giờ này họ còn ngoa ngụy tráng lên nỗi khiếp nhược của mình lớp son của sự khôn ngoan. Roosevelt còn có lý do giảm khinh, vì tình trạng bệnh tật khi phó hội với Stalin và Churchill tại Yalta, hoặc vì ban tham mưu chính trị của ông đã bị điệp viên Liên xô xâm nhập và chi phối mà ông không biết. Hơn 45 năm sau, Bush 41 không còn mấy lý do giảm khinh ấy, nhất là sau khi kế vị Reagan.
Sau khi trực tiếp kết án Liên xô tại Latvia và trực diện nói chuyện với Tổng thống Vladimir Putin trong lễ mừng chiến thắng tại Moscow, Bush 43 kết thúc chuyến Âu du tại Cộng hòa Georgia. Tại đây, ông xuất hiện trước Quảng trường Tự do - tên cũ là Quảng trường Lenine -
ngợi ca cuộc cách mạng nhung của dân Georgia. Đây là nơi dân chúng đã biểu tình và bị Liên xô đàn áp năm 1989; đây cũng là nơi dân chúng đã biểu tình năm 1991 khi Liên xô tan rã - ngược với lời khuyên của Bush 41 - và đây là nơi cuộc biểu tình năm 2003 đã kết thúc chế độ Shevardnadze và đưa Tổng thống Saakhashvili lên cầm quyền theo ý dân. Ngần ấy cuộc biểu tình đều không đông bằng cuộc diễn hành vì tự do tuần qua, với sự tham dự của Bush 43.
Tổng thống Bush tuyên bố ủng hộ việc Georgia gia nhập NATO, ông hứa hẹn góp phần giải quyết việc Liên bang Nga phải rút quân khỏi hai vùng ly khai của Georgia - thực chất là hai căn cứ quân sự và thuộc địa Nga trong lãnh thổ Georgia - để người dân tự quyết định về thể chế chính trị và đại biểu của mình trong cộng đồng sắc tộc Georgia. Không còn nói gì tới nạn khủng bố, ông Bush tiếp tục lột giáp và tấn công Liên bang Nga để mở rộng vùng ảnh hưởng của tự do dân chủ trên lục địa Âu Á và bắt đầu nhìn xa hơn Kyrgyzstan hay Uzbekistan, vào tới sân sau của Liên bang Nga và Trung Quốc.
Đối với dân Georgia - y như dân Ukraine hay Ba Lan, Hung Gia Lợi, v.v…. - George W. Bush mới là lãnh tụ đáng kính trọng, hơn hẳn George H. Bush. Liệu họ có thành ngữ "con hơn cha là nhà có phúc" hay chăng, chúng ta không biết. Nhưng biết rằng ngày nay những người đã từng bị chế độ cộng sản đàn áp tại Âu châu đều có một cái nhìn khác về nước Mỹ. Sau Donald Rumsfeld, đến lượt Bush đã gọi các nước đó là "Âu châu mới".
Và cuối cùng, những người kết án việc ông Bush tố giác sự sai lầm tại Yalta vẫn chỉ là "Hoa Kỳ cũ". Cái nước Hoa Kỳ đáng ghét đã từng hy sinh đồng minh và lý tưởng dân chủ để đạt thỏa hiệp với quỷ dữ.
Khác với thân phụ - một chính khách lão thành có nhiều kinh nghiệm quốc tế - ông Bush có dáng dấp của người sùng đạo: ông minh bạch trong chủ trương và tin vào sức mạnh chính trị của đạo lý - thí dụ như lòng khát khao tự do dân chủ có sức dời núi lấp biển và mọi thỏa hiệp hy sinh tự do của người khác chỉ là sự ổn định không bền vững - là nguyên nhân bất ổn. Chỉ mong rằng những đổi thay do ông Bush góp phần tạo ra trong nhiệm kỳ hai sẽ đủ quyết định và đủ bền vững để trở thành một nếp hành xử mới trong quan hệ giữa các nước với nhau.
Mười lăm năm trước, số phận Liên bang Xô viết và sự nghiệp của Mikhael Gorbachev nguy kịch như chỉ treo mành. Lúc đó, Tổng thống George H. Bush (Bush 41) nghĩ sao"
Ông cho là mình có thể tin được Gorbachev và muốn giúp Gorby quý mến cơ hội gìn giữ sự vẹn toàn của Liên xô. Lý do: nếu đế quốc này tan rã, kho võ khí chiến lược có thể rơi vào tay những kẻ không đáng tin. Một lý luận đầy tính thận trọng. Vả lại, thỏa hiệp với một lãnh tụ đầy quyền uy - dù không do dân bầu lên - cũng góp phần bảo vệ được sự ổn định trong quan hệ quốc tế, còn hơn là mở tung trăm ngàn vấn đề trong khối Xô viết.
Đã thế, vị tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ còn tiếp tục chánh sách được nhiều vị tiền nhiệm theo đuổi, kể từ Franklin Roosevelt: các nước nhược tiểu nên hy sinh cho nhu cầu ổn định giữa các đại cường. Vì vậy, chính quyền Bush 41 kín đáo thuyết phục các nước trong quỹ đạo Xô viết là đừng dại dột tự sát với chủ nghĩa quốc gia dân tộc của mình. Nghĩa là đừng đòi độc lập với Liên xô. Ông Bush cha không muốn Liên xô tan rã và rất ngại phong trào ly khai bùng nổ kể từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ. Ông có vẻ khôn ngoan hay ít nhất là cẩn trọng hơn vị tiền nhiệm là Ronald Regan, người đã kêu gọi Gorbachev kéo xập bức tường ô nhục này.
Về sau, đảng Cộng hòa còn khoe rằng Bush 41 có góp phần kết thúc Chiến tranh lạnh. Thực ra, ông ta chỉ kết thúc chiến tranh lạnh một cách vô tình - trong cả hai ý nghĩa. Bất ngờ và bất nhân.
Tháng Tám năm 1991, khi Liên xô hấp hối và Gorbachev trôi xuống cửa sau vào lịch sử, George H. Bush đã tới Thủ đô Kiev đọc một bài diễn văn gây thất vọng cho dân Ukraine. Bài diễn văn được gọi là "gà chết" kêu gọi dân Ukraine đừng dại dột đòi độc lập vì tinh thần quốc gia dân tộc của mình. Hãy nhớ lại mà xem: bốn tháng trước khi Liên xô sụp đổ, lãnh tụ của đệ nhất siêu cường dân chủ còn yêu cầu dân Ukraine tạm hy sinh nguyện vọng ấp ủ từ ba thế kỷ là giành lại quyền tự chủ. Dân Ukraine không nghe lời khuyên của Bush 41: vài tháng sau, họ biểu tình và biểu quyết ủng hộ việc tách ra khỏi Liên bang Xô viết.
Năm ấy, Hoa Kỳ mất một cơ hội sát cánh cùng một quốc gia có vị trí chiến lược tại Đông Âu và vì vậy không mấy được các nước Đông Âu khác tin tưởng. Rốt cuộc, họ nghĩ là nhân danh một sự ổn định mơ hồ nào đó, các đại cường vẫn cố thỏa hiệp với nhau. Y như Hoa Kỳ thời Richard Nixon từng thỏa hiệp với Trung Quốc và hy sinh miền Nam Việt Nam cho những mục tiêu sâu xa hay lớn lao hơn mà nạn nhân trong cuộc không thể biết được.
Cũng vẫn chính quyền Bush 41 ấy, về sau còn tung ra khẩu hiệu "trật tự mới của thế giới" như một nhãn hiệu đẹp dán lên một cái chai rỗng. Trật tự ấy là một sự hỗn loạn và Liên bang Nga kế vị Liên bang Xô viết cứ teo tóp suy sụp dần… Chỉ có lãnh đạo Hà Nội thì vồ lấy khẩu hiệu ấy để cảnh báo về ý đồ "diễn biến hòa bình", và nhiều nhà bình luận bên ngoài thì gật gù nghiền ngẫm sự khôn ngoan đã từng thấy trên vỉa hè Saigon trước 1975, rằng "Mỹ nó đã có kế hoạch rồi", hoặc "Mỹ nó chẳng bao giờ bỏ rơi miền Nam"….
Nước Mỹ khi đó thực ra bị bất ngờ. Bị tự kỷ ám thị, Hoa Kỳ khi ấy không mấy tin rằng Liên xô có thể sụp đổ.
Trải qua nhiều thập niên, chẳng những lượng định sai về tình tình thực tế của khối Xô viết và các nước cộng sản nói chung, Trung ương Tình báo CIA và giới chức ngoại giao Mỹ còn chi phối cả đường lối ứng xử của Hoa Kỳ với Đế quốc Liên xô, căn cứ trên sự lượng giá sai lạc của họ. Duy nhất có một người lại đơn giản tin vào một nguyên tắc gần với đạo lý hơn là dịa dư chiến lược, là Ronald Reagan với câu nói bất hủ, rằng Liên xô là một đế quốc ác độc, nên ông theo đuổi chánh sách thi đua đầy tính đối đầu hơn là hòa dịu. Chánh sách ấy khiến Liên xô hụt hơi vì bị xuất huyết và tự sụp đổ dưới những vấn đề chồng chất do chế độ cộng sản gây ra cho nước Nga.
Mười lăm năm sau…. George W. Bush lên làm tổng thống và từ bỏ đường lối thỏa hiệp cố hữu. Đa số giới chức ngoại giao - dù thuộc đảng Cộng hòa hay công thần của triều đại Bush 41 - đều cho là Bush 43 theo đuổi một đường lối đối ngoại quá hung hăng và đầy rủi ro. Nhân vật tiêu biểu cho quan điểm khôn ngoan cố hữu đó là cựu Ngoại trưởng Colin Powell cuối cùng cũng ngậm ngùi ra đi, được mời ra đi, khi ông Bush thành lập nội các mới cho nhiệm kỳ hai. Xu hướng ngoại giao cổ điển ấy vẫn còn, qua các đòn ngầm tung ra để đánh bại John Bolton trong chức vụ Đại sứ tại Liên hiệp quốc.
Thực ra, từ cuối năm 2003, tại cung Whitehall của nước Anh, Geroge W. Bush đã nói rõ lập trường của mình, sau này được trình bày một cách hệ thống trong bài diễn văn tái nhập chức và bài diễn văn về Tình hình Liên bang vào đầu năm nay. Trong quá khứ, các nước Tây phương đã lầm lẫn khi thỏa hiệp với các chế độ độc tài vì nhu cầu gọi là "ổn định bang giao quốc tế". Đó là một sự lầm lẫn vì chẳng ổn định được gì, mà còn là một điều bất nhân vì hy sinh quyền tự do dân chủ của nhiều dân tộc trên thế giới. Ngược lại, ông chủ trương là an ninh của Hoa Kỳ - quyền lợi Mỹ - gắn liền với quyền tự do của các dân tộc khác. Từ chủ trương ấy, ý niệm tự do dân chủ có sức mạnh giải phóng và trở thành một phần then chốt trong sách lược đối ngoại của chính quyền ông.
Ban đầu, người ta lầm tưởng rằng Bush vừa phát minh ra một lý luận mới để biện minh cho sự can thiệp vào Iraq - hoặc cả Trung Đông hay khối Hồi giáo - vì loại mục tiêu thiết thực và tầm thường, như dầu khí chẳng hạn. Ban đầu, người ta cho rằng diệt trừ khủng bố hoặc phát huy tự do dân chủ nhân quyền, v.v… chỉ là cái cớ của Mỹ.
Bây giờ, người ta mới hiểu ra là ông Bush này nói thật, và đã nói là làm, sẵn sàng trả mọi giá để làm cho kỳ được. Người ta thấy điều ấy khi Ukraine rồi Lebanon, Kyrgyzstan, bị chấn động bởi cuộc cách mạng dân chủ. Người ta càng thấy điều ấy khi Tổng thống Bush thăm viếng Âu châu nhân dịp kỷ niệm 60 năm lễ Chiến thắng tại Âu châu.
Ông tới Cộng hòa Latvia, một trong ba nước bị Liên xô thôn tính sau Thế chiến II và từng được Bush 41 khuyên can là đừng vội đòi độc lập mà thành tự sát. Ông nói ngôn ngữ khác hẳn thân phụ và còn đi xa hơn thế: như đã gián tiếp đề cập trong bài diễn văn năm 2003 lại Anh, ông Bush công nhận sự lầm lẫn của Hoa Kỳ và Anh quốc khi thỏa hiệp với Stalin khiến phân nửa Âu châu bị ách độc tài cộng sản trong phân nửa thế kỷ.
Những ai cho rằng hiệp định Yalta 1945 hay hiệp định Tehran 1943 nhằm chia đôi thế giới thành hai khối là sự thỏa hiệp xuất phát từ đòi hỏi thực tế của tình hình khi đó có lẽ đã đánh giá sai thực tế, một điều rất đáng tiếc. Nhưng đáng buồn hơn nữa là giờ này họ còn ngoa ngụy tráng lên nỗi khiếp nhược của mình lớp son của sự khôn ngoan. Roosevelt còn có lý do giảm khinh, vì tình trạng bệnh tật khi phó hội với Stalin và Churchill tại Yalta, hoặc vì ban tham mưu chính trị của ông đã bị điệp viên Liên xô xâm nhập và chi phối mà ông không biết. Hơn 45 năm sau, Bush 41 không còn mấy lý do giảm khinh ấy, nhất là sau khi kế vị Reagan.
Sau khi trực tiếp kết án Liên xô tại Latvia và trực diện nói chuyện với Tổng thống Vladimir Putin trong lễ mừng chiến thắng tại Moscow, Bush 43 kết thúc chuyến Âu du tại Cộng hòa Georgia. Tại đây, ông xuất hiện trước Quảng trường Tự do - tên cũ là Quảng trường Lenine -
ngợi ca cuộc cách mạng nhung của dân Georgia. Đây là nơi dân chúng đã biểu tình và bị Liên xô đàn áp năm 1989; đây cũng là nơi dân chúng đã biểu tình năm 1991 khi Liên xô tan rã - ngược với lời khuyên của Bush 41 - và đây là nơi cuộc biểu tình năm 2003 đã kết thúc chế độ Shevardnadze và đưa Tổng thống Saakhashvili lên cầm quyền theo ý dân. Ngần ấy cuộc biểu tình đều không đông bằng cuộc diễn hành vì tự do tuần qua, với sự tham dự của Bush 43.
Tổng thống Bush tuyên bố ủng hộ việc Georgia gia nhập NATO, ông hứa hẹn góp phần giải quyết việc Liên bang Nga phải rút quân khỏi hai vùng ly khai của Georgia - thực chất là hai căn cứ quân sự và thuộc địa Nga trong lãnh thổ Georgia - để người dân tự quyết định về thể chế chính trị và đại biểu của mình trong cộng đồng sắc tộc Georgia. Không còn nói gì tới nạn khủng bố, ông Bush tiếp tục lột giáp và tấn công Liên bang Nga để mở rộng vùng ảnh hưởng của tự do dân chủ trên lục địa Âu Á và bắt đầu nhìn xa hơn Kyrgyzstan hay Uzbekistan, vào tới sân sau của Liên bang Nga và Trung Quốc.
Đối với dân Georgia - y như dân Ukraine hay Ba Lan, Hung Gia Lợi, v.v…. - George W. Bush mới là lãnh tụ đáng kính trọng, hơn hẳn George H. Bush. Liệu họ có thành ngữ "con hơn cha là nhà có phúc" hay chăng, chúng ta không biết. Nhưng biết rằng ngày nay những người đã từng bị chế độ cộng sản đàn áp tại Âu châu đều có một cái nhìn khác về nước Mỹ. Sau Donald Rumsfeld, đến lượt Bush đã gọi các nước đó là "Âu châu mới".
Và cuối cùng, những người kết án việc ông Bush tố giác sự sai lầm tại Yalta vẫn chỉ là "Hoa Kỳ cũ". Cái nước Hoa Kỳ đáng ghét đã từng hy sinh đồng minh và lý tưởng dân chủ để đạt thỏa hiệp với quỷ dữ.
Khác với thân phụ - một chính khách lão thành có nhiều kinh nghiệm quốc tế - ông Bush có dáng dấp của người sùng đạo: ông minh bạch trong chủ trương và tin vào sức mạnh chính trị của đạo lý - thí dụ như lòng khát khao tự do dân chủ có sức dời núi lấp biển và mọi thỏa hiệp hy sinh tự do của người khác chỉ là sự ổn định không bền vững - là nguyên nhân bất ổn. Chỉ mong rằng những đổi thay do ông Bush góp phần tạo ra trong nhiệm kỳ hai sẽ đủ quyết định và đủ bền vững để trở thành một nếp hành xử mới trong quan hệ giữa các nước với nhau.
Gửi ý kiến của bạn