Năm 1995, ông cùng với ông Nguyễn Trung Thành (nguyên vụ trưởng vụ bảo vệ đảng) đứng đơn xin giải oan cho những nạn nhân của "vụ án xét lại chống đảng" đã xẩy ra 30 năm về trước (1963-68), liên quan đến nhiều nhân vật cao cấp trong chế độ. Vì vụ này, 2 ông Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng Hà đã bị khai trừ ra khỏi đảng CSVN ngày 26-6-1995.
Sau đây là một số đề nghị của ông về vấn đề từ bỏ chủ nghĩa cộng sản cũng như thay đổi tên nước để thoát ra khỏi cảnh độc tài, lạc hậu hiện nay.
***
1. Từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, giữ nguyên mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
2. Thay tên nước "Cộng hoà XHCN VN" bằng "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" hoặc nước "Việt Nam dân chủ nhân dân", hoặc nước "Việt Nam".
3. Từ bỏ lý thuyết "Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội" của Lênin, để xây dựng một lý thuyết phát triển bền vững của Việt Nam từ kém phát triển lên phát triển.
- Từ chế độ bao cấp kế hoạch hoá tập trung lên nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Từ chế độ lấy công hữu hoá làm chủ thể sang chế độ tư hữu nhiều thành phần.
- Từ một xã hội ít nhiều khép kín sang một trạng thái hội nhập đầy đủ với thế giới.
- Từ một nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp là một nền văn minh tri thức.
4. Từ bỏ học thuyết Lênin về thời kỳ quá độ có nghĩa là:
4.1. Từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội vì là mục tiêu ảo tưởng.
4.2. Từ bỏ lý luận lấy "đấu tranh giai cấp giữa hai con đường TBCN và XHCN làm động lực thúc đẩy đến xã hội phát triển", chấp nhận đường lối Đại đoàn kết toàn dân.
4.3. Từ bỏ lý luận về cách mạng quan hệ sản xuất xoá bỏ giai cấp tư sản, xoá bỏ nền kinh tế cá thể đi vào chế độ công hữu với hai hình thức quốc doanh và kinh tế tập thể...
4.4. Từ bỏ chủ trương "lấy quốc doanh làm chủ đạo", thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, lấy kinh tế dân doanh làm nền tảng.
5. Từ bỏ "Nhà nước chuyên chính vô sản do giai cấp vô sản lãnh đạo", từ bỏ "cái gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa", Nhà nước pháp quyền XHCN, thừa nhận nhà nước dân chủ nhân dân, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, thừa nhận xã hội công dân, Nhà nước pháp quyền.
6. Từ bỏ chủ nghĩa vô thần của CN Mác, từ bỏ quan điểm coi tôn giáo là "thuốc phiên" đối với nhân dân cần tôn trọng tập quán, tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân coi các tôn giáo là các trào lưu văn hoá (kể cả các tôn giáo ngoại nhập).
7. Từ bỏ lý luận chỉ có 1 Đảng cộng sản lãnh đạo độc tôn đối với xã hội, chấp nhận "nền dân chủ đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam". Loại bỏ điều 4.
8.Từ bỏ chủ trương lấy chủ nghĩa Mác Lênin (mà cho tới nay vẫn chỉ là hệ thống các quan điểm lý luận của Staline) làm hệ tư tưởng chỉ đạo mặt trận tư tưởng, lý luận, mà phải lấy tư tưởng văn hoá của Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng chỉ đạo của quốc gia.
9. Vừa chú trọng nâng cao mức sống của nhân dân, vừa coi trọng nền văn minh tinh thần, tôn trọng đời sống tâm linh của dân tộc.
10. Vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (lấy đó làm cơ sở) lại vừa phải giải quyết các vấn đề xã hội, chăm sóc và phát triển con người.
Vừa bảo đảm việc làm đầy đủ cho người lao động, vừa từng bước xây dựng chế độ bảo đảm xã hội cho toàn dân.
***
Đề nghị Những vấn đề cần chú ý về mặt đối ngoại:
1. Từ bỏ nhận định cũ về thời đại, coi "Thời đại là quá độ từ CNTB lên CNCS trên quy mô toàn thế giới bắt đầu từ cách mạng Tháng 10 Nga".
Mà chấp nhận nhận định "Thời đại ngày nay là thời đại Hoà Bình và phát triển là thời đại chuyển lên nền văn minh trí thức".
2. Xác lập quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên cơ sở coi Trung Quốc là "đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu", từ bỏ coi Trung Quốc là kẻ thù truyền kếp, hoặc coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược.
16 chữ lâu nay vẫn nói về quan hệ Việt Trung là vận dụng chung các nước láng giềng, không loại trừ nước nào, và không phải chỉ để ứng xử với riêng Trung Quốc...
Cần có sự phân tích cụ thể hơn trên các vấn đề lãnh thổ (biên giới trên bộ, Vinh Bắc bộ, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị...
Cần phải điều chỉnh lại các quan hệ giao tiếp mấy năm gần đây, tránh sự thân mật quá mức cần thiết.
3. Xác lập quan hệ Việt Nam + Hoa Kỳ trên cơ sở coi Hoa Kỳ là "đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu" từ bỏ coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân ta.
Từ bỏ chính sách 2 mặt "Thân thiện bên ngoài còn bên trong thì coi là kẻ thù, là đối tượng".
Xử lý đúng mức với các vấn đề tranh chấp quyền lợi trong thương mại và trong những đợt nhận xét của Chính phủ Hoa Kỳ đối với những cách xử sự đối với tôn giáo, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.
Tranh thủ tối đa mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ để phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, kể cả vấn đề giữ gìn lãnh thổ trên biển Đông v.v... khắc phục những hoạt động khiêu khích ngay từ trong nội bộ Tổng cục II - Bộ Quốc phòng, gây thiệt hại lớn cho Tổ quốc Việt Nam trong tình hình thế giới hiện nay.
4. Suy nghĩ chuyển đổi Bộ Ngoại giao thành Bộ Quan hệ đối ngoại phụ trách tất cả các mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá... tránh sự chia cắt, tốn kém như hiện nay.
***
Đề nghị mấy điều cơ bản trong việc đổi mới Đảng
1. Việc CN Mác phát hiện vai trò lịch sử của giai cấp công nhân là "người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản" là giai cấp lãnh đạo cách mạng vô sản để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, đã được kiểm nghiệm và chứng tỏ đó là sai lầm lớn về mặt lý luận.
Do đó phải từ bỏ quan điểm "Đảng cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân", "Tính đảng là tính chất của giai cấp công nhân".
Đảng phải đại diện cho toàn dân tộc, cho nhân dân Việt Nam, chứ không thể là của một giai cấp, một tầng lớp nào.
2. Theo Mác, lịch sử loài người sau khi trải qua 4 phương thức sản xuất: cộng sản nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, sẽ tiến chủ nghĩa cộng sản (mà giai đoạn đầu, giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội) như một quy luật tất yếu. Điều đó không được chứng minh rõ.
Và trong thế kỷ 21 này liệu có nước nào tiến lên xây dựng được xã hội cộng sản chủ nghĩa thì chưa thấy khả năng hiện thực nào cả. Vì vậy nên từ bỏ khái niệm Đảng cộng sản đi.
Có thể chọn một trong các khái niệm sau đây:
- Đảng lao động Việt Nam.
- Đảng nhân dân Việt Nam.
- Đảng dân chủ Việt Nam.
- Đảng dân chủ - xã hội Việt Nam.
- Đảng xã hội Việt Nam.
- Đảng quốc dân Việt Nam.
3. Đường lối của Đảng suốt 6 kỳ đại hội.
(Từ đại hội IV cho tới Đại hội IX) liên tục là một đường lối sai lầm. Cứ xem xét mức GDP bình quân đầu người (400 USD/đầu người, và sự tụt hậu quá xa của nền kinh tế Việt Nam so với các nước xung quanh. Đó là do Đảng vẫn phải cố giữ chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là với học thuyết của Lênin về thời kỳ quá độ. Tuy có cố gắng đổi mới ở điểm này hay điểm kia, nhưng đường lối chung quanh 6 kỳ đại hội vẫn tiếp tục là một đường lối sai lầm.
Việc khẳng định những sai lầm có tính nguyên tắc của học thuyết Mác - Lênin đã được trình bày khá rõ, có hệ thống trong các bài viết của Kiên Giang, Phan đình Diệu, Đặng Quốc Bảo, Hoàng Tùng, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Tiến, Phạm Ngọc Uyển, Hồng Hà v.v...
Vì vậy, Đảng phải kiên quyết từ bỏ việc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo cho Đảng.
Và thay vào đó, cần lấy tư tưởng văn hoá Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng chỉ đạo cho toàn Đảng, và cho cả đất nước.
4. Đảng phải phấn đấu phát huy vai trò lãnh đạo xã hội, vai trò tiên phong của mình bằng trí tuệ (đóng góp vào việc xây dựng hệ thống luật pháp và xây dựng chính quyền nhân dân) và bằng tính gương mẫu của các Đảng viên của Đảng.
Đường lối của Đảng phải được thể hiện trong các chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Đối với tất cả các vấn đề về quốc kế dân sinh, an ninh quốc phòng, trật tự xã hội, đều phải do Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất ban hành.
Phải dứt khát từ bỏ kiểu lãnh đạo, Đại hội Đảng, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị ra các nghị quyết về các vấn đề của quốc gia, và buộc quốc hội, Chính phủ và toàn dân phải thi hành nghị quyết của Đảng. Đó là chế độ Đảng trị, Đảng chuyên chính, Đảng cướp quyền của nhân dân chứ không phải là Đảng lãnh đạo.
Đối với các vấn đề của Tổ quốc, của nhân dân thì ý kiến của Đảng (đại hội, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, các cấp uỷ Đảng ở địa phương v.v...) chỉ là những kiến nghị được trình ra Quốc hội, Chính phủ thảo luận và ra quyết định.
Do đó phải kiên quyết xoá bỏ điều 4 trong hiến pháp. Để điều 4 trong Hiến pháp chỉ có tác dụng tiêu cực đối với quốc tế. Đối với trong nước điều 4 chỉ là chỗ dựa cho các hoạt động lạm quyền, sai trái của các tổ chức Đảng ở các cấp.
5. Nếu như trong hoàn cảnh chiến tranh phải có một hệ thống tổ chức Đảng ở các cấp, Đảng từ Trung ương cho tới các cơ sở xã, phường, cơ quan, xí nghiệp, đơn vị vũ trang, để đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng ở các cấp thì nay trong điều kiện hoà bình, nhân dân đi vào nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mọi hành vi to nhỏ nhất loạt phải tuân theo luật pháp, thì không thể duy trì phương thức lãnh đạo thời chiến nữa mà Đảng phải tập trung xây dựng hệ thống luật pháp một cách hoàn chỉnh, và thông qua hệ thống các cơ quan Nhà nước để lãnh đạo toàn dân thi hành luật pháp Nhà nước. Do đó không thể duy trì cách thức ở mỗi ngành, lại lập Đảng đoàn, hay Ban cán sự Đảng để trực tiếp lãnh đạo thủ trưởng ngành đó, cũng không duy trì cách thức tổ chức các cấp uỷ Đảng ở tỉnh, huyện, xã để trực tiếp lãnh đạo chỉ huy chính quyền ở tỉnh, huyện, xã.
Hệ thống chính quyền tỉnh, huyện, xã, nhất thiết phải thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh theo mệnh lệnh của Chính phủ, Trung ương.
Qua đó xoá bỏ toàn bộ chi phí xây dựng tổ chức, trụ sở, nhà khách của các tỉnh uỷ, huyện uỷ, Đảng uỷ xã... để giảm bớt một khoản tiền khổng lồ đối với tiền thuế đóng góp của nhân dân./.