Những kết quả từ một cuộc thăm dò ý kiến mới đây cho thấy rằng sự lớn mạnh về kinh tế thì đang sinh lợi cho tất cả mọi tầng lớp trong xã hội. Những thay đổi về xã hội đi cùng với việc cải thiện đời sống, theo lời ông Jonathan Haughton.
Jonathan Haughton là một hội viên tại Học Viện Harvard về Phát Triển Quốc Tế và là một trợ giáo về Kinh tế học tại Đại học Suffolk ở Boston.
Trong thập niên qua, Tổng Sản Lượng (GDP) của Việt Nam đã tăng gấp đôi và lợi tức tính trên mỗi đầu người tăng 60%. Nhiều khách sạn rực rỡ, các tòa nhà cao tầng, các công viên nước, hàng ngàn xe mô tô mới, được thấy ở các thành phố lớn.
Thay đổi về mặt xã hội là việc giảm xuống đáng kể về sinh sản, hầu như giảm một nửa trong suốt thập niên 1990s. Theo thống kê dân số năm 1989 dựa theo tiêu chuẩn về số con mà một phụ nữ có, tổng số mức sinh sản 4.4, so năm 1999 chỉ còn 2.3.
Vì sao sinh xuất giảm" Chính phủ hãnh diện về chương trình kế hoạch gia đình "một-hay-hai-con". Các khoa học gia về xã hội học tranh cãi rằng sinh xuất giảm do có những lớp giáo dục sinh sản dành cho đấng phụ huynh tăng lên, và sự gia tăng về đô thị hóa (từ 20% dân số trong năm 1989 tăng lên 24% hiện nay). Một ảnh hưởng mạnh mẽ hơn có thể đến từ sự thay đổi về nhiều quan niệm. Có một thời các cặp vợ chồng muốn có nhiều con, giờ họ chỉ muốn có 1 hay 2 con; các trẻ em được xem như là vốn quý, và phải chi tiêu tiền cho con cái học hành, nuôi ăn và sắm áo quần. Cha mẹ ở Việt Nam hiện thích có con có chất lượng hơn là có nhiều con.
Truyền thống thích có con trai hơn cũng yếu dần. Dựa vào dữ kiện từ Vietnam Living Standards Survey năm 1993, có bằng chứng rằng các gia đình chưa có con trai cố gắng đẻ thêm để có con trai. Năm 1998, một cuộc thăm dò ý kiến giống vậy được thực hiện, việc cố gắng đẻ con trai không còn nữa. Điều này có thể phản ánh một sự đánh giá đúng về nền kinh tế đang lên và sự quan trọng về mặt xã hội của người phụ nữ. Các cô gái trẻ trong lực lượng lao động trông giống con trai hơn, làm việc nhiều giờ hơn trong gia đình cũng như ngoài xã hội, và thích được học hành.
Lợi tức trung bình tăng nhanh vào thập niên 1990s.
Thị trường lao động là yếu tố. có 86% người lớn trong lực lượng lao động năm 1998, mức nam giới và nữ giới đi làm việc ngang nhau, chỉ có 1.6% là thất nghiệp. Mức thất nghiệp ở các vùng quê ít hơn 1%.
Thị trường đầu tư là yếu tố. Một nửa số gia đình nông dân mượn tiền, thường là chịu mức lãi cao. Hơn một nửa các món tiền vay mượn từ các nơi như Vietnam Bank of Agriculture, Bank cho người Nghèo, và các kế hoạch bảo trợ của chương trình NGO.
Giá nông nghiệp tăng. Trong suốt thập niên 1990s các trở ngại về mậu dịch và xuất cảng gạo giảm dần. Giá các loại ngũ cốc khác tăng lên. Điều này cho thấy một một phong trào bùng nổ cho hầu hết các gia đình làm về nghề nông.
Điều gì thêm vào cho sự lớn mạnh về kinh tế"
Mức sinh xuất thấp và giảm xuống, sử dụng thuốc ngừa thai tăng cao, việc thích đẻ con trai hơn con gái giảm, nghèo đói giảm mạnh, mức thất nghiệp thấp và đi làm việc tăng lên.