Từ ngày Cộng sản lên cầm quyền ở hai nước, những người Cộng sản Việt Nam đã có câu ví von rất mùi mẫn bình dân là Việt Nam với Trung Quốc như "môi và răng, hễ môi hở là răng lạnh". Khốn thay, nhiều khi "răng" lại cắn "môi" đến vãi máu như cuộc chiến biên giới măn 1979 đã cho thấy, đến nay nó còn sơi tái một phần của "môi". Hơn 10 năm sau cuộc chiến biên giới, Tổng bí thư đảng Đỗ Mười sang Bắc Kinh để nối lại mối bang giao giữa hai nước "anh em" Cộng sản. Năm 1993 hai bên bắt đầu thương thuyết, nhưng trầy trật kéo dài vì vấn đề rất khó khăn. Mãi đến năm 1999, Giang Trạch Dân gặp Lê Khả Phiêu - lúc đó đã thay Đỗ Mười làm Tổng bí thư - và ép Phiêu phải kết thúc cuộc thương lượng về biên giới trước năm 1999, về lãnh hải trước năm 2000. Trong lần Phiêu đi thăm Bắc Kinh, có một hình ảnh do thông tín viên AP chụp làm tôi nhớ mãi. Đó là hình ông già Phiêu ôm hôn thắm thiết "ông trẻ" đàn em của họ Giang là Thủ tướng Chu Dung Cơ, đầu Phiêu gục vào vai Cơ, mồm cười xệch như mếu. Phiêu làm Tổng bí thư đảng cai trị một nước mà tư cách không có, thế lại yếu nên phải quỵ lụy đàn anh Trung Quốc. Trước ngày có đại hội đảng CSVN, Phiêu không biết phận mình ra sao nên muốn núp bóng che tàn.
Thân phận là Tổng bí thư quyền uy còn hơn cả quốc trưởng mà làm như vậy thật khó coi. Năm 1979, quân đội CSVN đánh quân xâm lăng Trung Quốc những đòn đẫm máu, tại sao có gan như vậy" Đó là vì lúc đó Liên Sô còn sống, ban lãnh đạo CSVN thấy có nơi dựa hơi nên ra mặt đối đầu với Trung Quốc. Năm 1991, Liên Sô sụp đổ, Đỗ Mười vội đích thân sang "chầu" Bắc Kinh, cầu xin có nơi nương tựa mới. Tư cách lãnh đạo của CSVN là thế đó, nó chỉ mạnh khi có đàn anh đứng phía sau sẵn sàng bảo trợ. Đến thời Lê Khả Phiêu tư cách đó còn xuống thêm một cấp. Vì mong giữ vững được địa vị quyền uy để ăn miếng đỉnh chung, người cầm quyền cả một nước đã phải quỵ lụy và tuân theo mọi mệnh lệnh của kẻ bên ngoài. Nhưng mộng Phiêu hóa thành phiêu thực, rút cuộc Phiêu vẫn mất chức. Vậy tại sao ban lãnh đạo mới dưới quyền Nông Đức Mạnh không dám hủy bỏ mà vẫn phải thi hành hiệp ước bất công" Đảng CSVN không còn thế mạnh đoàn kết như mấy chục năm trước, nó đã rước đô-la vào và đang tự "diễn biến hòa bình" để làm nát đảng.
Bây giờ theo hiệp ước, lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam bị thiệt thòi như thế nào" Toàn dân không biết rõ chi tiết, nhưng ông Bùi Tín ở Paris nhận được tin tức riêng từ trong nước đưa ra cho biết 10% vịnh Bắc Việt giàu tài nguyên, hải sản, hơi đốt và du lịch đã chuyển nhượng cho Trung Quốc, vì trước đây phần lãnh hải của Việt Nam là 62/38 nay biến thành 54/46. Hiệp ước không nói gì đến Hoàng Sa mà Trung Quốc đã chiếm đóng từ năm 1974, coi như đã thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Luật sư Nguyễn Hữu Thống ở San Jose cho biết về chủ quyền Hải phận, năm 1887 Pháp ký với Triều đình Mãn Thanh hiệp ước Brévié nên có sự phân định rõ ràng từ hơn 100 năm trước.
Về biên giới, sự mất mát của Việt Nam còn đau đớn hơn vì nó phạm vào truyền thống ngàn năm của dân tộc. Theo ông Bùi Tín, có 70 điểm tranh chấp trên đường biên giới dọc theo 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam, thì nay 36 điểm đã thuộc về Trung Quốc, phần lớn là những cao điểm có giá trị rất lớn về an ninh quốc phòng. Tất cả có đến 720 cây số vuông dọc đường biên giới bị chuyển nhượng cho Trung Quốc. Đường ranh giới cũ đã được xác định ngay từ lúc Pháp chiếm bán đảo Đông Dương. Năm 1885, triều đình Mãn Thanh đã công nhận biên giới của Việt Nam theo hiệp định ký ở Thiên Tân, còn được gọi là Hiệp ước Patenôtre. Điểm quan trọng nhất trong Hiệp ước này là Nam Quan ở phía Bắc tỉnh Lạng Sơn, đã có từ hai ngàn năm trước.
Nam Quan theo Hán tự có nghĩa là cửa ải chính thông thương giữa Trung Quốc và Việt Nam ở phương Nam. Từ thời nhà Hán bên Tàu, các vua quan Trung Hoa thời đó dựng cửa ải Nam Quan coi như cái cổng của họ để đi vào Việt Nam. Hiển nhiên họ đã công nhận kể từ bước chân đầu tiên ra khỏi cái cửa đó là họ đã ở trên lãnh thổ Việt Nam. Tình trạng này đã được tôn trọng từ đó cho đến thời nay. Người dân Việt Nam thời Pháp thuộc đứng ở phía Bắc thị trấn Đồng Đăng (Việt Nam) vẫn thường nhìn thấy bóng lính Trung Hoa đứng trên cửa ải Nam Quan ở xa xa. Đó là nơi chủ quyền Trung Hoa đã hết và cũng từ đó chủ quyền lãnh thổ Việt Nam bắt đầu. Chính vì thế dân tộc Việt Nam vẫn có câu nói ngàn đời do tổ tiên để lại: "Nước ta tính từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu".
Vậy mà ngày nay, theo hiệp ước của mấy ông Cộng sản ký với Trung Quốc cái mốc biên giới lại cắm xa hơn Nam Quan để lấn vào lãnh thổ Việt Nam khoảng 5 cây số. Như vậy lời dặn dò của tiền nhân dân tộc để lại đã bị những người lãnh đạo CSVN sửa lại vì nhu cầu riêng của họ. Làm sao người dân Việt còn có thể hãnh diện nói: Nước tôi trải dài từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu" Ải Nam Quan cũ ngàn xưa đã bị phá, nay còn lại chữ "ải" trống không. Kẻ nào đón lấy "ải" rỗng cũng là điềm gở. Vì âm Hán chữ "ải" còn có nghĩa là thắt cổ. Bởi vậy "ải tử" là chết thắt cổ.