PARIS (VB) - Nhân dịp Tết Canh Thìn, HT. Thích Quảng Độ viết thư cho Nhà Cầm quyền Hà Nội yêu cầu: Giảm thuế cho nông dân, trả tự do cho HT Thích Huyền Quang cùng tất cả tù nhân chính trị, bãi bỏ án tử hình, và phục hồi quyền sinh hoạt của GHPGVNTN. Đó là nội dung của bản Thông Cáo Báo Chí gửi đi từ Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, Paris, hôm Thứ Ba.
Bản Thông Cáo Báo Chí tóm lược như sau.
Nhân dịp Tết Canh Thìn - 2000, bằng đường bưu điện bảo đảm, Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), vừa gửi đến Nhà cầm quyền Hà Nội một bức thư yêu cầu thực thi 4 điểm. Thư mang số tham chiếu 16-VHĐ/VT viết từ Saigon ngày 15.1.2000 gửi các ông Lê Khả Phiêu, Tổng bí thư Đảng, Trần Đức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN, Phan Văn Khải, Thủ tướng Chính phủ, và Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội. Mở đầu bức thư, Hoà thượng viết:
”...Tuy nước có độc lập, nhưng đạo Phật không được mở mang. Từ trước tại miền Bắc, và sau năm 75 tại miền Nam, chùa chiền bị Đảng và Nhà nước chiếm dụng, tượng Phật bị phá huỷ, Tăng Ni và Phật tử bị hành hạ, tù đày, tàn sát. Cả một chính sách từ hành xử đến luật pháp hòng phá tan đạo Phật. Bởi thế từ 25 năm qua, các phong trào vận động cho nhân quyền và tự do tôn giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, do Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang lãnh đạo, chỉ thực thi điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh 53 năm trước: “Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, phải hy sinh tranh đấu”.
“Tháng 5 năm ngoái, Viện Hoá Đạo chỉ thị cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức Đại hội VIII tại Nam California, để chuẩn bị đường hướng bước vào thiên kỷ mới, mà vì lý do Giáo hội bị đàn áp nên không thể tổ chức tại Việt Nam. Đại hội thành công rực rỡ, mang lại tiếng vang lớn và niềm hy vọng cho quần chúng Phật tử trong nước. Vì thế Ban Tôn giáo Chính phủ không ngừng thúc đẩy Giáo hội Phật giáo Nhà nước công kích Đại hội VIII suốt 8 tháng qua trong các đại hội hay tại các cuộc học tập phường xóm, chùa viện. Tuy hết phủ nhận trắng trợn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như trước kia; nhưng gần đây nhiều giới chức và nhà sư thuộc Giáo hội Nhà nước lên tiếng giải thích rằng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã đóng xong vai trò lịch sử của nó trước năm 1975. Hoà thượng Thích Quảng Độ gạt bỏ lối nguỵ biện ấy trong bức thư dẫn thượng:
“Tôn giáo là thực tại thiêng liêng của con người, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là nền tảng đạo lý, chứ không là hội đoàn thường tình được lập lên hay xoá bỏ như một công cụ nhất thời của chính trị”.
“Chữ “thống nhất” không hàm riêng nghĩa đen là cộng lại các tổ chức, hệ phái, cộng lại các cơ sở vùng miền mà vì lý do thời cuộc tạm phân chia. Nghĩa đen này, Phật giáo Việt Nam đã hoàn tất và nhất thống từ 2000 năm qua. Chữ “thống nhất” trong danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (...) bao hàm tính phát triển đặc thù, có một không hai, của đạo Phật Việt Nam (...). Trên mặt giáo lý, thống nhất là thống nhất hai phương hướng hành đạo Bắc tông và Nam tông, còn gọi là Đại thừa và Nguyên thuỷ. Sự thống nhất như thế, mới xẩy ra lần đầu tại nước Việt Nam vào thập niên 60, do chính hùng lực trí tuệ của người Phật tử Việt Nam. Trên mặt dân tộc và xã hội, thống nhất là loại trừ lối phân biệt kỳ thị sai lầm, phi Phật giáo, thoát thai từ những khái niệm nhị biên quốc tế, để thống nhất giữa Đạo và Đời, giữa chư Tăng Ni với đại khối nam nữ Cư sĩ Phật tử. Thống nhất như thế là bước tiến mới trong tư tưởng và hành động đặc thù của đạo Phật Việt Nam”.
“Vì vậy, từ ngộ nhận trên mặt ngữ nghĩa đến lợi dụng quyền hành huỷ bỏ chữ Thống nhất và ngăn cấm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất sinh hoạt tín ngưỡng, là đi ngược lại sự tiến hoá về tư tưởng và hành thế của một tôn giáo có mặt từ 20 thế kỷ qua trên đất nước này, đồng lúc đi ngược lại sự tự do tín ngưỡng của quần chúng Phật tử Việt Nam”.
Tiếp đấy, Hoà thượng Thích Quảng Độ đưa ra 3 yêu cầu, gồm bốn điểm, nhân dịp Tết Canh Thìn sắp đến. Đó là việc giảm thuế cho nông dân; trả tự do cho Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, và tất cả tù nhân chính trị; phục hồi quyền sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; và bãi bỏ án tử hình. Hoà thượng viết:
“Tết là mùa đại hoan hỉ, đại đoàn tụ của dân tộc. Theo truyền thống nhân hậu của nền văn hiến Việt, mà nhiều triều đại hoàng kim thường thực hiện trong quá khứ lịch sử. Đó là việc tha tù và giảm thuế. Vậy tôi kêu gọi Đảng và Nhà nước trả tự do cho tất cả tù nhân vì lương thức và tù nhân chính trị, bị tù đày vì bất đồng chính kiến hoặc biểu tỏ ôn hoà tín ngưỡng hay tôn giáo của họ. Đặc biệt trả tự do cho Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống, năm nay 83 tuổi, bị giam cầm quản chế không lý do từ 18 năm qua”.
”... Bộ “Quốc triều Hình luật” dưới đời Lê, vào thế kỷ 15, được các nhà luật học Âu Mỹ khen là một “hệ thống luật pháp tiến bộ so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”. Tinh thần nhân đạo, và trọng người tài, rất cao trong bộ Quốc triều Hình luật. Điều 3, đề ra 8 điều được nghị xét giảm tội, đáng kể là Nghị hiền, là những người có đức hạnh lớn, và Nghị năng, là những người có tài năng lớn. Điều 16 quy định những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm từ tội lưu trở xuống đều được miễn giảm và cho chuộc bằng tiền”.
“Thế mà ở thời đại văn minh tân tiến đầu thế kỷ 21 này, tại nước ta người bị tù tội trên tuổi 70 hay trẻ em dưới 15 tuổi bị giam nhốt quá đông trong các nhà tù và trại cải tạo. Nhiều trường hợp không được xét xử hoặc xét xử bất minh, phi luật pháp”.
“Ngoài ra, không thể quên rằng tám mươi phần trăm dân số nước ta là nông dân, hiện đang lâm cảnh đói khổ cùng cực, vì kinh tế suy sụp, vì sưu cao thuế nặng chồng chất. Tôi xin quý Ngài nhân dịp Tết ban bố việc giảm thuế cho nhân dân được nhờ”. Yêu cầu thứ hai là:
“Để cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phục hồi quyền sinh hoạt tự do. Ngoài lý do tôn giáo của một Giáo hội dân lập nhằm hướng dẫn tu học cho quần chúng Phật tử, còn là lý do cứu nguy cấp thiết để chận đứng các chủ trương mê tín, tệ nạn xã hội, và suy thoái đạo đức đang hoành hành nước ta, đặc biệt trong thế hệ trẻ. Tiềm lực và hiệu lực của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một thực tế lịch sử, trên mặt quốc gia cũng như quốc tế, có thể đóng góp hữu hiệu cho việc tái thiết đất nước trên các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, xã hội, kinh tế”.
Và yêu cầu thứ ba: “Yêu cầu Đảng và Nhà nước noi gương các nước văn minh trên thế giới bãi bỏ án tử hình”.
Hoà thượng Thích Quảng Độ lý luận: “Án tử hình không là thượng sách để chữa trị các tệ đoan xã hội. Thượng sách chính là sự ngăn ngừa bằng giáo dục và đức trị. Từ mấy năm qua, trung bình mỗi năm có chừng 60 đến 100 án tử hình. Điều thấy rõ, là không nhờ các án tử hình răn đe này, mà nạn tham nhũng, nạn buôn xì ke ma tuy, cướp của, giết người... được giảm thiểu. Thế thì phải tìm căn do từ gốc mà chữa trị. Việc gốc phải nhờ đến đạo lý và giáo dục. Đạo lý không phô bày qua hình thức, như hiện nay dàn dựng qua các lễ hội gọi là truyền thống nghi ngút khói hương và áo quần sặc sỡ, cốt thu hút khách du lịch đồng thời phát triển dị đoan mê tín như một chính sách ngu dân. Đạo lý phải là sự phát triển tự do của những nền tín ngưỡng lâu đời dung hoá với nếp sống văn minh hiện đại. Giáo dục không thể chìm đắm như hiện nay trong mục tiêu duy ngã vụ lợi và chủ nghĩa kim tiền, biểu thị cho ý thức hệ chà đạp nhân phẩm”.
“Hoàn cảnh hiện nay là miếng đất mầu mỡ cho nạn tham nhũng, ma tuý, trộm cắp, giết người phát triển. Có tuyên hàng trăm, hàng nghìn án tử hình cũng không thể giải quyết hoặc làm thối chí kẻ gây tội”. Hoà thượng Thích Quảng Độ nhắc nhở :
“Điều 6 trong bản Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc, mà Việt Nam ký kết tham gia, có ghi rõ: “Mỗi người đều có quyền được sống với sự sống vốn có. Quyền này được pháp luật bảo vệ. Không ai được phép độc đoán tước đoạt mạng sống của bất cứ người nào”. Tiếc thay Việt Nam chưa chịu ký kết tham gia Nghị định thư số 2 liên hệ Công ước nói trên và có hiệu lực từ ngày 11.7.1991, qua đó điều 7 quy định : “Không còn ai (thuộc các quốc gia ký Nghị định thư) bị tử hình. Quốc gia sẽ dùng mọi biện pháp để bãi bỏ án tử hình trên lãnh thổ mình”. Rồi Hoà thượng kết luận :
“Vì vậy, tôi mong mỏi quý Ngài sớm lấy quyết định bãi bỏ án tử hình. Đối với hiện trạng ở nước ta, án tử hình mang trong nó hai mầm mống nguy hại, phi nhân bản. Bất sát, không giết người, là tinh tuý của nền đạo lý Đông phương. Cho nên, lưu án tử hình là thất nhân tâm và đi ngược đạo lý truyền thống. Lại nữa, trong một quốc gia chưa tôn trọng pháp quyền, chưa chấp nhận tam quyền phân lập như nước ta, việc xử án bất minh dẫn đến hành động giết người vô tội hay không đúng tội. Cho nên, lưu án tử hình là gây nhân không tốt làm gia tăng hậu quả của tội ác”.