Khi Trần Dụng Lâm quyết định xin tÿ nạn chính trị tại Úc có lẽ ông đã tưởng tượng ông đào tÿ sang một quốc gia dưới sự lãnh đạo của một chính phủ có kỷ lục và uy tín trong việc chống độc tài, chống áp bức. Thế nhưng, cay đắng thay, sự thật không phải như ông tưởng.
Vào ngày 3/4/1954, 31 năm và 22 ngày trước khi ông Lâm xin đào tÿ, một nhân viên ngoại giao của một nước cộng sản khác cũng dẫn vợ xin đào tÿ và được chính phủ Úc lúc bấy giờ giang rộng tay đón tiếp. Như ông Trần Dụng Lâm, ông Vladimir Petrov cũng có cả một kho kiến thức về các hoạt động gián điệp và cũng sẽ có nguy cơ bị xử tử nếu bị trả về nguyên quốc. Chính phủ Tự Do của thủ tướng Menzies chẳng những cho vợ chồng ông Petrov tÿ nạn chính trị mà còn tặng cho họ 500 bảng Anh, một số tiền không phải là nhỏ lúc bấy giờ. Ông còn được trao tặng một vai trò chính trị có ảnh hưởng sâu rộng suốt nhiều năm sau đó. Chính phủ Menzies xem vợ chồng ông Petrov như một chứng cứ điển hình quý giá về những sự xấu xa tệ hại của chủ nghĩa cộng sản độc đảng, độc tài, phi nhân.
Sự đàn áp tàn nhẫn của cộng sản Nga trong thời chiến tranh lạnh cũng không khác gì với sự áp bức dân chúng của cộng sản Trung Hoa ngày nay. Thế nhưng, điều mà ông Trần Dụng Lâm có lẽ không bao giờ ngờ được là lợi nhuận kinh tế đã làm thay đổi tất cả. Hiện nay, tuy lớn tiếng hô hào và gởi quân tham chiến chống độc tài áp bức tại Iraq để phát huy và bảo vệ tự do dân chủ, chính phủ Howard lại ve vuốt Trung Cộng trong khi những tổ chức nhân quyền có uy tín như Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) liên tục ghi chép và phổ biến những hành vi chà đạp nhân quyền của Bắc Kinh.
Không may cho ông Trần Dụng Lâm là việc xin đào tÿ của ông lại xảy ra ngay lúc Úc và Trung Cộng đang thương lượng về việc bán uranium để cung cấp cho nhu cầu phát triển điện lực bằng nguyên tử lượng của Trung Hoa. Hơn thế nữa, Úc đang xuất cảng một số lượng hàng hóa khổng lồ bao gồm sắt, lông cừu và dầu hỏa cho các ngành kỹ nghệ đang bộc phát ở nước này. Trong vòng 5 năm qua, hàng năm, tổng sản lượng Úc xuất cảng qua Trung Hoa tăng 19% so với năm trước đó. Sự thương lượng về thể chế tự do mậu dịch giữa hai nước cũng đang tiến triển một cách khả quan.
Chính phủ Howard đã nhận xét một cách có thể đúng đắn rằng Trung Hoa sẽ nắm giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Úc trong vòng 50 năm tới đây và vì thế, có lẽ, đã tận dụng mọi khả năng hầu nuôi dưỡng một quan hệ tốt đẹp với quốc gia này. Thế nhưng, chính phủ Howard đã quá thiếu già dặn khi cho rằng Úc có thể tránh né không phải đối đầu với một thể chế độc tài, chuyên chế, chẳng chút ngần ngại dùng vũ lực tàn bạo nhất để đàn áp những kẻ bất đồng chính kiến.
Như một con đà điểu vùi đầu vào cát để không thấy những điều nó không muốn thấy, chính phủ Howard đã quay mặt né tránh những sự thật khó chối cãi về sự tàn bạo của Trung Cộng và hy vọng rằng dân chúng Úc cũng sẽ quên luôn những điều này. Bỗng nhiên ông Lâm hiện ra xin tÿ nạn chính trị và đồng thời ông nêu lên những vi phạm nhân quyền của Bắc Kinh.
Sau khi ông Trần Dụng Lâm buộc lòng phải công khai lộ diện trong cuộc biểu tình kỷ niệm 16 năm vụ Thiên An Môn vì cách đối xử thờ ơ lạnh nhạt của giới thẩm quyền Úc - đặc biệt từ bộ Ngoại Giao và bộ Di Trú - thì ông Hao Fengjun cũng xuất hiện trước giới truyền thông Úc để đưa thêm bằng chứng hậu thuẫn cho lời tuyên bố của ông Lâm về sự đàn áp đệ tử Pháp Luân Công cùng những kẻ bất đồng chính kiến trong nước cũng như ở ngoại quốc của nhà cầm quyền Trung Cộng.
Ông Hao Fengjun nguyên là một cán bộ thuộc đơn vị công an 610 - đơn vị dã man tàn nhẫn nhất với nhiệm vụ đàn áp đệ tử Pháp Luân Công ở tỉnh Tianjin phía Bắc Trung Hoa. Ông mang theo một xấp tài liệu mật được ông sao chép từ máy điện toán ở văn phòng của ông. Ông Hao Fengjun sang du lịch ở Úc rồi sau đó xin được bảo vệ (protection visa) từ tháng 2/05. Đơn của ông đang được cứu xét.
Ông Hao Fengjun kể tường tận việc CS đàn áp người bất đồng chính kiến tại Trung Hoa và đồng thời hậu thuẫn cho lời tuyên bố của ông Lâm về mạng lưới gián điệp của Trung Cộng ở Úc. Ông cũng kể lại về những phương thức mà hoạt động của những đệ tử Pháp Luân Công ở Úc được báo cáo cho nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Theo sau ông Hao Fengjun là nguồn tin rằng có một viên chức công an nhà nước (state security official) đã từng chứng kiến cảnh một người bị tra tấn đánh đập đến chết vì người này được Úc cho tÿ nạn (given refugee status). Luật sư đại diện cho người này, ông Bernard Collaery, nguyên bộ trưởng tư pháp ACT, cho biết ông đã đi nhiều nơi ở Á Châu để thu thập chứng cứ về những sự chà đạp nhân quyền của Trung Cộng. Ông tuyên bố với chương trình Lateline của đài ABC: “Chuyện rất rõ ràng là có cả một guồng máy tinh vi theo dõi người Úc gốc Hoa, người Hoa và (ngay cả) người Úc ở ngay tại quốc gia này (Úc)”. (It’s very, very clear... there is a highly sophisticated apparatus at work surveilling Chinese Australians, Chinese and Australians in this country).
Chuyện Trung Cộng theo dõi, sách nhiễu và đe dọa đệ tử Pháp Luân Công hoặc thành viên của các tổ chức đối kháng bất đồng chính kiến ngay tại Úc không phải là chuyện mới lạ, và có lẽ sẽ không được cơ quan an ninh phản gián ASIO để ý quan tâm lắm, vì những hoạt động này không được xem như có ảnh hưởng quan trọng đến kinh tế hoặc quốc phòng của Úc mà chỉ nhắm vào các tổ chức của người gốc Hoa mà thôi! Có lẽ vì thế mà cho đến bây giờ ASIO vẫn chưa liên lạc với ông Lâm, mặc dù ông Lâm cũng công khai tuyên bố rằng Trung cộng từng tổ chức bắt cóc những người đối kháng ở Úc mang về nước. ASIO hoặc ASIS cũng không hề liên lạc với ông Hao trong suốt hơn 4 tháng trời qua.
Vụ ông Trần Dụng Lâm nói cho cùng thì cũng chỉ là một sự kiện nữa trong một chuỗi những sự kiện cho thấy chính phủ Úc đã thiếu hẳn tầm nhìn xa trông rộng về những vi phạm nhân quyền ở Trung Hoa. Từ năm 2002 ngoại trưởng Alexander Downer đã ký sắc lệnh cho cảnh sát được quyền ngăn cấm đệ tử Pháp Luân Công trương biểu ngữ và hô hào phản đối trước tòa đại sứ Trung Cộng. Ngoại trưởng Downer dùng một thỏa ước quốc tế nhằm bảo vệ sự trang nghiêm của các cơ sở ngoại giao làm căn bản cho sắc lệnh này. Hiện nay Pháp Luân Công đang tiến hành thủ tục khiếu nại tại tòa Thượng Thẩm ACT.
Chẳng những chỉ có quyền tự do ngôn luận của công dân Úc gốc Hoa hoặc công dân Úc theo Pháp Luân Công bị chính phủ Howard dẹp sang một bên hầu bảo vệ lợi nhuận kinh tế, mà ngay cả những vị đại diện dân cử cũng chịu chung một số phận. Năm 2003 sau khi TNS Bob Brown và TNS Kerry Nettle thuộc đảng Xanh lên tiếng chỉ trích TT George Bush trong lúc ông đang phát biểu trước quốc hội Úc thì họ đã bị cấm không được tham dự phiên họp ngày hôm sau của quốc hội vì Trung Cộng đã lên tiếng cảnh cáo rằng Hồ Cẩm Đào sẽ không phát biểu ngày hôm ấy nếu y có nguy cơ bị chỉ trích như ông Bush.
Tuy vậy, khi TNS Bob Brown lên tiếng chỉ trích “chính phủ (Howard) đã không có hành động thích ứng đúng đắn trong vụ ông Lâm vì quan hệ mậu dịch với Trung Hoa” thì thủ tướng John Howard lập tức bác bỏ “đấy chỉ là chuyện huyễn hoặc” (nonsense talk) và đồng thời hứa hẹn rằng những quan tâm của Úc về mậu dịch với Trung Hoa sẽ không ảnh hưởng đến việc xét đơn của ông Lâm. Thế nhưng, có nhiều bằng chứng cho thấy trong vài năm qua chẳng những chỉ có vấn đề nhân quyền ở Trung Hoa đã bị Canberra gác sang một bên mà còn nhiều sự kiện khác cũng bị ảnh hưởng vì mối quan hệ kinh tế với Bắc Kinh. Ông Aldo Borgu, giám đốc của Australian Strategic Policy Institute (Học Viện Chính Sách Chiến Lược Úc) nêu lên những thí dụ điển hình cho việc này: Canberra đã nhanh nhẩu lên tiếng công nhận nền kinh tế ở Trung Hoa là một nền kinh tế thị trường; Canberra đã yên lặng không lên tiếng ủng hộ Hoa Kỳ trong việc kêu gọi Trung Cộng thẩm định lại giá trị của Hoa Tệ (đồng quan), Canberra đã cho thấy Úc sẽ có thể không trợ giúp Đài loan nếu đảo quốc này bị Trung Cộng tấn công...
Thực ra thì sự quan tâm về quan hệ kinh tế song phương với Trung Hoa có lẽ đã được đặt không đúng chỗ. Trung Hoa cần những nguyên liệu của Úc để có thể phát triển cho nền kỹ nghệ cũng như cho kinh tế của nó. Nếu hàng hóa của Úc không có phẩm lượng cao, không có giá cả phải chăng và nguồn cung cấp không đều đặn thì Trung Hoa có tiếp tục mua bán với Úc hay không"
Chính phủ Howard phải nhận thức rằng, mối quan hệ giữa quốc gia với quốc gia, không chỉ thuần túy đặt trên nền tảng lợi nhuận, mà còn đặt trên nền tảng những giá trị tinh thần, lễ giáo, luân lý... mà nền văn minh của nhân loại, trong đó có Úc, đã thiết lập. Và chính những nền tảng văn minh này sẽ khiến mối quan hệ của hai chính phủ, và cao hơn, mối quan hệ của cả hai dân tộc, sẽ mãi mãi bền vững, trong niềm tự hào bất biến và miên viễn cùng lịch sử.
Vào ngày 3/4/1954, 31 năm và 22 ngày trước khi ông Lâm xin đào tÿ, một nhân viên ngoại giao của một nước cộng sản khác cũng dẫn vợ xin đào tÿ và được chính phủ Úc lúc bấy giờ giang rộng tay đón tiếp. Như ông Trần Dụng Lâm, ông Vladimir Petrov cũng có cả một kho kiến thức về các hoạt động gián điệp và cũng sẽ có nguy cơ bị xử tử nếu bị trả về nguyên quốc. Chính phủ Tự Do của thủ tướng Menzies chẳng những cho vợ chồng ông Petrov tÿ nạn chính trị mà còn tặng cho họ 500 bảng Anh, một số tiền không phải là nhỏ lúc bấy giờ. Ông còn được trao tặng một vai trò chính trị có ảnh hưởng sâu rộng suốt nhiều năm sau đó. Chính phủ Menzies xem vợ chồng ông Petrov như một chứng cứ điển hình quý giá về những sự xấu xa tệ hại của chủ nghĩa cộng sản độc đảng, độc tài, phi nhân.
Sự đàn áp tàn nhẫn của cộng sản Nga trong thời chiến tranh lạnh cũng không khác gì với sự áp bức dân chúng của cộng sản Trung Hoa ngày nay. Thế nhưng, điều mà ông Trần Dụng Lâm có lẽ không bao giờ ngờ được là lợi nhuận kinh tế đã làm thay đổi tất cả. Hiện nay, tuy lớn tiếng hô hào và gởi quân tham chiến chống độc tài áp bức tại Iraq để phát huy và bảo vệ tự do dân chủ, chính phủ Howard lại ve vuốt Trung Cộng trong khi những tổ chức nhân quyền có uy tín như Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) liên tục ghi chép và phổ biến những hành vi chà đạp nhân quyền của Bắc Kinh.
Không may cho ông Trần Dụng Lâm là việc xin đào tÿ của ông lại xảy ra ngay lúc Úc và Trung Cộng đang thương lượng về việc bán uranium để cung cấp cho nhu cầu phát triển điện lực bằng nguyên tử lượng của Trung Hoa. Hơn thế nữa, Úc đang xuất cảng một số lượng hàng hóa khổng lồ bao gồm sắt, lông cừu và dầu hỏa cho các ngành kỹ nghệ đang bộc phát ở nước này. Trong vòng 5 năm qua, hàng năm, tổng sản lượng Úc xuất cảng qua Trung Hoa tăng 19% so với năm trước đó. Sự thương lượng về thể chế tự do mậu dịch giữa hai nước cũng đang tiến triển một cách khả quan.
Chính phủ Howard đã nhận xét một cách có thể đúng đắn rằng Trung Hoa sẽ nắm giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Úc trong vòng 50 năm tới đây và vì thế, có lẽ, đã tận dụng mọi khả năng hầu nuôi dưỡng một quan hệ tốt đẹp với quốc gia này. Thế nhưng, chính phủ Howard đã quá thiếu già dặn khi cho rằng Úc có thể tránh né không phải đối đầu với một thể chế độc tài, chuyên chế, chẳng chút ngần ngại dùng vũ lực tàn bạo nhất để đàn áp những kẻ bất đồng chính kiến.
Như một con đà điểu vùi đầu vào cát để không thấy những điều nó không muốn thấy, chính phủ Howard đã quay mặt né tránh những sự thật khó chối cãi về sự tàn bạo của Trung Cộng và hy vọng rằng dân chúng Úc cũng sẽ quên luôn những điều này. Bỗng nhiên ông Lâm hiện ra xin tÿ nạn chính trị và đồng thời ông nêu lên những vi phạm nhân quyền của Bắc Kinh.
Sau khi ông Trần Dụng Lâm buộc lòng phải công khai lộ diện trong cuộc biểu tình kỷ niệm 16 năm vụ Thiên An Môn vì cách đối xử thờ ơ lạnh nhạt của giới thẩm quyền Úc - đặc biệt từ bộ Ngoại Giao và bộ Di Trú - thì ông Hao Fengjun cũng xuất hiện trước giới truyền thông Úc để đưa thêm bằng chứng hậu thuẫn cho lời tuyên bố của ông Lâm về sự đàn áp đệ tử Pháp Luân Công cùng những kẻ bất đồng chính kiến trong nước cũng như ở ngoại quốc của nhà cầm quyền Trung Cộng.
Ông Hao Fengjun nguyên là một cán bộ thuộc đơn vị công an 610 - đơn vị dã man tàn nhẫn nhất với nhiệm vụ đàn áp đệ tử Pháp Luân Công ở tỉnh Tianjin phía Bắc Trung Hoa. Ông mang theo một xấp tài liệu mật được ông sao chép từ máy điện toán ở văn phòng của ông. Ông Hao Fengjun sang du lịch ở Úc rồi sau đó xin được bảo vệ (protection visa) từ tháng 2/05. Đơn của ông đang được cứu xét.
Ông Hao Fengjun kể tường tận việc CS đàn áp người bất đồng chính kiến tại Trung Hoa và đồng thời hậu thuẫn cho lời tuyên bố của ông Lâm về mạng lưới gián điệp của Trung Cộng ở Úc. Ông cũng kể lại về những phương thức mà hoạt động của những đệ tử Pháp Luân Công ở Úc được báo cáo cho nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Theo sau ông Hao Fengjun là nguồn tin rằng có một viên chức công an nhà nước (state security official) đã từng chứng kiến cảnh một người bị tra tấn đánh đập đến chết vì người này được Úc cho tÿ nạn (given refugee status). Luật sư đại diện cho người này, ông Bernard Collaery, nguyên bộ trưởng tư pháp ACT, cho biết ông đã đi nhiều nơi ở Á Châu để thu thập chứng cứ về những sự chà đạp nhân quyền của Trung Cộng. Ông tuyên bố với chương trình Lateline của đài ABC: “Chuyện rất rõ ràng là có cả một guồng máy tinh vi theo dõi người Úc gốc Hoa, người Hoa và (ngay cả) người Úc ở ngay tại quốc gia này (Úc)”. (It’s very, very clear... there is a highly sophisticated apparatus at work surveilling Chinese Australians, Chinese and Australians in this country).
Chuyện Trung Cộng theo dõi, sách nhiễu và đe dọa đệ tử Pháp Luân Công hoặc thành viên của các tổ chức đối kháng bất đồng chính kiến ngay tại Úc không phải là chuyện mới lạ, và có lẽ sẽ không được cơ quan an ninh phản gián ASIO để ý quan tâm lắm, vì những hoạt động này không được xem như có ảnh hưởng quan trọng đến kinh tế hoặc quốc phòng của Úc mà chỉ nhắm vào các tổ chức của người gốc Hoa mà thôi! Có lẽ vì thế mà cho đến bây giờ ASIO vẫn chưa liên lạc với ông Lâm, mặc dù ông Lâm cũng công khai tuyên bố rằng Trung cộng từng tổ chức bắt cóc những người đối kháng ở Úc mang về nước. ASIO hoặc ASIS cũng không hề liên lạc với ông Hao trong suốt hơn 4 tháng trời qua.
Vụ ông Trần Dụng Lâm nói cho cùng thì cũng chỉ là một sự kiện nữa trong một chuỗi những sự kiện cho thấy chính phủ Úc đã thiếu hẳn tầm nhìn xa trông rộng về những vi phạm nhân quyền ở Trung Hoa. Từ năm 2002 ngoại trưởng Alexander Downer đã ký sắc lệnh cho cảnh sát được quyền ngăn cấm đệ tử Pháp Luân Công trương biểu ngữ và hô hào phản đối trước tòa đại sứ Trung Cộng. Ngoại trưởng Downer dùng một thỏa ước quốc tế nhằm bảo vệ sự trang nghiêm của các cơ sở ngoại giao làm căn bản cho sắc lệnh này. Hiện nay Pháp Luân Công đang tiến hành thủ tục khiếu nại tại tòa Thượng Thẩm ACT.
Chẳng những chỉ có quyền tự do ngôn luận của công dân Úc gốc Hoa hoặc công dân Úc theo Pháp Luân Công bị chính phủ Howard dẹp sang một bên hầu bảo vệ lợi nhuận kinh tế, mà ngay cả những vị đại diện dân cử cũng chịu chung một số phận. Năm 2003 sau khi TNS Bob Brown và TNS Kerry Nettle thuộc đảng Xanh lên tiếng chỉ trích TT George Bush trong lúc ông đang phát biểu trước quốc hội Úc thì họ đã bị cấm không được tham dự phiên họp ngày hôm sau của quốc hội vì Trung Cộng đã lên tiếng cảnh cáo rằng Hồ Cẩm Đào sẽ không phát biểu ngày hôm ấy nếu y có nguy cơ bị chỉ trích như ông Bush.
Tuy vậy, khi TNS Bob Brown lên tiếng chỉ trích “chính phủ (Howard) đã không có hành động thích ứng đúng đắn trong vụ ông Lâm vì quan hệ mậu dịch với Trung Hoa” thì thủ tướng John Howard lập tức bác bỏ “đấy chỉ là chuyện huyễn hoặc” (nonsense talk) và đồng thời hứa hẹn rằng những quan tâm của Úc về mậu dịch với Trung Hoa sẽ không ảnh hưởng đến việc xét đơn của ông Lâm. Thế nhưng, có nhiều bằng chứng cho thấy trong vài năm qua chẳng những chỉ có vấn đề nhân quyền ở Trung Hoa đã bị Canberra gác sang một bên mà còn nhiều sự kiện khác cũng bị ảnh hưởng vì mối quan hệ kinh tế với Bắc Kinh. Ông Aldo Borgu, giám đốc của Australian Strategic Policy Institute (Học Viện Chính Sách Chiến Lược Úc) nêu lên những thí dụ điển hình cho việc này: Canberra đã nhanh nhẩu lên tiếng công nhận nền kinh tế ở Trung Hoa là một nền kinh tế thị trường; Canberra đã yên lặng không lên tiếng ủng hộ Hoa Kỳ trong việc kêu gọi Trung Cộng thẩm định lại giá trị của Hoa Tệ (đồng quan), Canberra đã cho thấy Úc sẽ có thể không trợ giúp Đài loan nếu đảo quốc này bị Trung Cộng tấn công...
Thực ra thì sự quan tâm về quan hệ kinh tế song phương với Trung Hoa có lẽ đã được đặt không đúng chỗ. Trung Hoa cần những nguyên liệu của Úc để có thể phát triển cho nền kỹ nghệ cũng như cho kinh tế của nó. Nếu hàng hóa của Úc không có phẩm lượng cao, không có giá cả phải chăng và nguồn cung cấp không đều đặn thì Trung Hoa có tiếp tục mua bán với Úc hay không"
Chính phủ Howard phải nhận thức rằng, mối quan hệ giữa quốc gia với quốc gia, không chỉ thuần túy đặt trên nền tảng lợi nhuận, mà còn đặt trên nền tảng những giá trị tinh thần, lễ giáo, luân lý... mà nền văn minh của nhân loại, trong đó có Úc, đã thiết lập. Và chính những nền tảng văn minh này sẽ khiến mối quan hệ của hai chính phủ, và cao hơn, mối quan hệ của cả hai dân tộc, sẽ mãi mãi bền vững, trong niềm tự hào bất biến và miên viễn cùng lịch sử.
Gửi ý kiến của bạn