Thơ lục bát xưa tới nay đã có âm hưởng ca dao. Những câu nói có vần điệu với hình ảnh đơn sơ đã đi nhanh hơn trong đà diễn đạt. Độc giả nhận thấy ngay vì nó gần gũi bên đời sống, những Tam Quan, Bà Gi với mè xửng, ngọn dừa, thánh gía, ma Hời Tháp Chiêm đã hiển hiện và không có một tấm màn nào ngăn cách để nhận thức được nỗi buồn của một chuyến rời xa:
Hỏi tôi ngày ở Tam Quan
Có ăn mè xửng em làm hay chưa"
Súng ai bắn nát ngọn đừa
Thương cây thánh gía nhà thờ gãy đôi
Em dệt chiếu dưới đồi mười
Mà buồn cháy đỏ hai mươi năm rồi
Về Bà Gi chỉ mình tôi
Bỗng yêu chết được ma Hời Tháp Chiêm...
Ba mươi bài thơ với hai phần rõ nét: Đời lính và một mai về lại, đã là mộng tưởng của người lính sinh trưởng miền Nam nhưng long đong xuôi ngược ở Cao Nguyên. Trong không khí lúc nào cũng muốn lùi về quá khứ, ở Tam Biên với núi rừøng buôn thượng nhưng lại nghỉ và hướng về vùng Châu Thổ với hoa vàng điên điển, gốc ổi trâm bầu, mấy dây bình bát, vài đám ô rô... Tình cảm trong thơ Lâm Hảo Dũng là tình cảm của người yêu quê hương, thương nhớ xứ sở còn luyền ái nam nữ bình thường chỉ là ngững nét chấm phá mờ nhạt không rõ nét. Người con gái ở đây không phải là những hình ảnh của người con gái kiêu sa thành thị, mà là Thạnh với”Hay những tối lang thang đời quán vắng, nhớ hồân em ngan ngát mái buồn tênh...”, là em của nỗi buồn bên mái lá “Tóc em dài chắc biết tôi thương, cánh hoa chùm gửi nở bên đường...” ở ngày đi thương sợi khói bên nhà, những nhung nhớ đơn sơ nhẹ nhàng như giòng kinh, như hương sen, như con tép bạc cá trèn... Muôn đời gần gũi những không phải không có gía trị gợi hình. Những người làm thơ thích phức tạp hóa hay dùng những hình ảnh bậc hai bậc ba,có nghĩa là từ hình ảnh nầy gợi đến một hình ảnh khác rồi hình ảnh khác nầy mang đến những biểu tượng mà thi sĩ cố ý muốn diễn tả. Còn ở trong thơ Lâm Hảo Dũng, hình ảnh quen thuộc gần gũi trước mắt và truyền đạt tức thời. Những câu ca dao đã sống hàng trăm năm trong trí nhớ dân tộc bởi sự đơn giản trong sạch về ý và từ. Từ sự dễ dàng cảm nhận không cần suy nghỉ rắc rối, độc giả đã bước đến một bước gần gũi hơn. Không gian trong thơ là quê hương, là nơi tác gỉa đã sống và lớn lên, là nơi người thơ đã cầm súng và chiến đấu suốt thời hoa niên son trẻ. Ngày đi thương sợi khói bên nhà không có những cuộc tình nhuốm màu hiện sinh ở thành phố, không có những màu sắc êm mát của thiên nhiên cây cỏ và những cảm giác nhẹ nhàng bồi hồi. Tình cảm đó được diễn tả như những sợi tơ nhẹ nhẹ giăng mắc. Lính xa nhà ở Lâm Hảo Dũng lúc nào cũng gần thiên nhiên để vọng tưởng về một nơi khác đã xa rất nhiều thương nhớ. Ở chiến trường Tây Nguyên nhớ về nơi sinh trưởng nhớ lại những ngày mặc quần áo trận. Nhà thơ của chúng ta đã lang thang qua rất nhiều địa danh, những Bồng Sơn, Hoài Nhơn, Phù Củ, Đèo Nhông, Banhet, Ô Môi, Đầm Dơi... đã hiện diện rất nhiều trong tác phẩm. Mỗi địa danh nhắc đến một biểu tượng, cùng trong một bài thơ có nhiều biểu tượng, cùng trong một bài thơ có nhiều biểu tượng quá ý tưởng sẽ loãng đi và người đọc sẽ có cảm giác ôm đồm từ biểu tượng này qua ý tưởng khác, và ý chính muốn nói của người thơ sẽ bị hay chế ít nhiều.
Như HàThúc Sinh đã viết trong lời bạt, Lâm Hảo Dũng là thi sĩ lính hiếm qúy nhất Việt nam từ trước đến nay, hàng ngũ của Quang Dũng và Nguyễn Bắc Sơn. Tôi cũng có cảm giác tương tự khi đọc thơ Lâm Hảo Dũng. Con người chiến sĩ đã đậm nét từ đời sống đến suy tưởng. Tôi thích những câu thơ thật hào sảng ngang tàng như “Sưối có ngàn năm ai nhớ suối. Ta đi ta nhắc đến tên ta. Ví như xương chất cao thành núi. Cũng chỉ mong quay lại mái nhà...” hạy những nét bi hùng cảm khái “Hào kiệt đời nay không chỗ đứng. Buồn nghiêng ngọn cỏ mộ A sầu. Thế trận đổi ra thành thế sự. Súng dài gươm sắc khác nhau đâu"” Những câu thơ đẹp như thế rất nhiều trong Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà và đã tạo một không khí nhất quán trong tác phẩm. Tình cảm trọng lành vẫn được vun đắp dù ở trong những điều kiện không thuận lợi. Bây giờ đã hết chiến trường xa nhưng nếu một mai về lại..., con người chiến sĩ lại trở về với vẫy vùng như con cá bơi lội trong giòng nước mát. Chiến đấu vì quê hương, vì yên lành cho những người con gái ruộng đồng chân chất,những điều đó đã chan hòa trong những vần thơ và tạo một sắc thái riêng cho Lâm Hảo Dũng. Những lúc mơ ước không đạt đến, nhà thơ tự hỏi mình và hỏi những bạn bè trang lứa những câu hỏi khó. Dũng sĩ Chuyên Chư có còn không hay đã mai một ở xứ lạ quê ngưòi, dù hôm nay những tên thời cơ những bầy khuyển mã vẫn nhơn nhơn đáng ghét nhưng vẫn có người mơ con đường Đông Tiến.
Những điều muốn nói đã được tả đầy đủ, Lâm Hảo Dũng đã làm thơ với tất cả tâm hồn trong sáng của mình. Không gian cách ngăn có làm ngăn trở ngày về nhưng vẫn thôi thúc những giấc mơ, những mong muốn chung của dân tộc. Và chiến sĩ Lâm Hảo Dũng đã có được một tác phẩm đúng tầm vóc, như một lưỡi gươm sắc sẳn sàng múa lên.
( Tin Việt, 11-8-86)