Trong hai ngày 11 và 12 tháng 9 năm 2007 đại tướng David Petraeus, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Iraq cùng với đại sứ Hoa Kỳ tại Iraq Ryan Crocker đã tường trình tình hình quân sự tại Iraq và đưa ra một số biện pháp trước quốc hội.
Tướng Petraeus tạo sự hấp dẫn của buổi tường trình bằng kế hoạch rút một ít quân trong năm 2007, và tiếp tục rút hết số quân 30.000 mới tăng cường (gọi là surge) từ tháng Hai 2007 đến nay. Nhưng ông vẫn đề nghị duy trì quân số 136.000 người, tức số quân tại Iraq trước khi tăng quân cho đến mùa hè năm 2008. Sau đó tùy tình hình sẽ định liệu tiếp. Kế hoạch của tướng Petraeus là kế hoạch của người bán sale. Tăng giá (tăng quân) để giảm giá (rút quân), người mua tưởng được giá hời (thấy có rút quân), nhưng thật ra cũng là giá thị trường (quân số vẫn như trước).
Tướng Petraeus có nhiều lý do để đưa ra đề nghị của ông. Kế hoạch chung của lưỡng đảng (dù ngôn từ hai đảng dùng khác nhau) gồm hai vế: thứ nhất là “Iraq hóa chiến tranh Iraq” để giảm gánh nặng chiến trường cho quân đội Hoa Kỳ, thứ hai là rút dần quân ra khỏi Iraq và tái phối trí lực lượng quân sự còn lại để yểm trợ cho một chính phủ Iraq thân Hoa Kỳ tại Baghdad. Kế hoạch của tướng David Petraeus thỏa mãn nhu cầu của tòa Bạch Cung và đảng Cộng hòa và làm cho đảng Dân chủ muốn nặng lời phê bình cũng ngại không tránh khỏi tiếng “bỏ chạy”.
Trên thực tế kế hoạch của tướng David Petraeus là dù nhìn dưới góc cạnh nào trong dài hạn cũng là một kế hoạch rút quân, và có thể cuộc rút quân nhanh chậm thế nào sẽ do vị tổng thống kế nhiệm thực hiện.
Thật ra, tướng David Petraeus không có một kế hoạch nào tốt hơn kế hoạch ông đã đưa ra và tổng thống Bush đã dùng đề nghị đó làm căn bản cho kế hoạch ông phát họa và trình bày với quốc dân tối Thứ Năm 13/9/2007.
Tổng thống Bush lần đầu tiên công khai nói về việc rút quân mà “có vẻ như” không trái lại với những gì ông từng tuyên bố là không rút quân khi nhiệm vụ chưa hoàn thành. Dựa vào đề nghị của tướng David Petraeus tổng thống Bush tuyên bố từ nay đến lễ Giáng sinh 2007 sẽ rút về 5.700 quân, và cho đến tháng 7 năm 2008 sẽ rút thêm 5 trung đoàn, nghĩa là vào cuối mùa hè năm tới quân số Hoa Kỳ tại Iraq sẽ vào khoảng 136.000 quân như quân số đầu năm 2007.
Một thực tế khác là nếu tướng David Petraeus và tổng thống Bush muốn tăng quân cũng không có quân mà tăng. Và đó là thực tế của một nước đang đối đầu với một cuộc chiến tranh nhiều mặt mà chỉ dùng quân đội tình nguyện.
Trước mắt, cuộc chiến tranh chống khủng bố còn dài chưa biết biến chuyển ra sao nên nếu Hoa Kỳ không chuẩn bị nhân lực cho quân đội, Hoa Kỳ sẽ phải hạn chế khả năng thực hiện chiến lược cũng như chiến thuật cần thiết để bảo vệ an ninh nội địa và quyền lợi của Hoa Kỳ trên thế giới.
Chuẩn bị nhân lực không gì khác hơn là huy động toàn bộ nhân lực quốc gia sẵn sàng phục vụ dưới cờ. Nói cách khác là áp dụng chế độ quân dịch (cũng có khi gọi là chế độ động viên). Năm 2003 và đầu năm 2006 đã hai lần dân biểu Charles Rangel thuộc đảng Dân chủ kêu gọi ban hành chế độ quân dịch và mới đây một chiến binh từng chiến đấu tại Iraq,Trung sĩ Mark Finelli (một cố vấn đầu tư của cơ sở cung cấp dịch vụ tài chánh Morgan Stanley làm việc tại tháp đôi ở New York vào hôm bị tấn công, nhưng may mắn sống sót, sau đó nhập ngũ và được gởi sang chiến đấu tại Iraq) cũng đã phát biểu ý kiến kêu gọi lãnh đạo quốc gia ban hành lệnh tổng động viên.
Trong một bài viết nhan đề: “Why We Need a Draft” (Tại sao chúng ta cần chế độ quân dịch) đăng trên tờ tuần báo Newsweek số ngày 10/9/2007 đánh dấu -thiếu 1 ngày - đầy 6 năm cuộc khủng bố kinh hoàng ngày 9/11/2001 ông Finelli viết rằng chừng nào nhân dân Hoa Kỳ còn tránh né chiến tranh, xem chiến tranh là chuyện của những quân nhân tình nguyện, thì chừng đó chúng ta chưa thể chiến thắng.
Trung sĩ Finelli bắt đầu bài viết của ông bằng cách thuật lại cuộc đụng độ tại thành phố Fallujah vào một ngày Thứ Sáu tháng 11 năm 2005. Trong hai tuần liền đơn vị của ông hành quân bằng xe Humvees bọc sắt bị tổn thất 13 nhân mạng vì mìn chôn bên đường (Improvised Explosive Devices – IED), trong khi ông thấy xe của các hãng thầu tư nhân cũng bị mìn IED nhưng không hề hấn gì. Hỏi cấp trên thì được biết xe của hãng thầu tư nhân là loại xe chống mìn (gọi là MRAP – Mine Resistant Ambush Protected) đắt tiền gấp 5 lần xe Humvees của Thủy quân Lục chiến dùng. Finelli chợt hiểu Hoa Kỳ chưa đầu tư sức mạnh kinh tế vào quân đội, và suy nghĩ thêm một chút ông tìm ra lý do chính vì nước có chiến tranh mà không ban hành lệnh quân dịch. Ông biết chừng nào con của các ông Thượng nghị sĩ, con của các ông nhà giàu chưa ra chiến trường thì các ông ấy chưa lo đúng mức và cái gì cho quân đội cũng chậm trễ. Quân đội đã yêu xin cung cấp xe MRAP cho lính, nhưng mãi 18 tháng sau mới có được một nửa nhu cầu!
Trung sĩ Finelli viết rằng ít ai đại diện cho những người lính đang chiến đấu tại Iraq trong quốc hội, nên những chiến binh xem mình như những đứa con hoang. Ai cũng nói thương quân đội qua khẩu hiệu “support the troop” nhưng quốc hội chưa lo cho binh sĩ ngoài chiến trường đúng mức như trường hợp chính con cái họ cũng ở ngoài chiến trường. Các quân nhân (thuộc tầng lớp con nhà nghèo) thường không đón nhận ngọt ngào sự thăm viếng của các chính trị gia. Họ thường kháo nhau rằng: “Chúng tôi chỉ là những kẻ đỡ đạn cho các ông. Nói xong các ông đi mất tiêu. Kẻ thù đâu có bắn mấy ông và các con của các ông cũng đâu có mặt ở đây.”
Theo Trung sĩ Finelli, chiến dịch “Giải phóng Iraq” (Operation Iraqi Freedom) đã gặp nhiều khó khăn vì sau ngày 11/9/2001 tổng thống Bush đã không ban hành lệnh tổng động viên, một điều Trung sĩ nghĩ rằng người lãnh đạo cần làm, nhưng tiếc thay đã không làm và vẫn để yên cho thành phần giàu có đứng ngoài cuộc chiến bảo vệ quốc gia.
Theo nhận xét của Trung sĩ Finelli, bất kỳ ai, Cộng hòa hay Dân chủ thắng cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 2008, quân đội Hoa Kỳ vẫn sẽ còn có mặt trong cuộc chiến tranh lằng nhằng ở Iraq vào ngày đó. Nhưng sau 4 năm 6 tháng chiến tranh, đoàn quân tình nguyện của quân đội Hoa Kỳ, nhất là bộ binh và Thủy quân Lục chiến đã cảm thấy mệt mỏi, không biết Bộ quốc phòng Hoa Kỳ sẽ lấy người ở đâu để đáp ứng nhu cầu nếu không ban hành lệnh động viên. Mới đây Bộ quốc phòng thưởng mỗi thanh niên tình nguyện nhập ngũ 20.000 mỹ kim để đạt tiêu chuẩn tuyển mộ. Nhưng đây là một biện pháp chỉ làm cho binh lính và thành phần giàu có và được ưu đãi trong xã hội thêm xa cách.
Tuy nhiên Trung sĩ Finelli nói ông không thích chế độ quân dịch như đã áp dụng trong cuộc chiến Việt Nam, miễn dịch cho những sinh viên đang học đại học, vì nó tạo ra sự bất công.Thành phần xuất sắc và giàu có vẫn trốn lính. Và chế độ quân dịch này gây bất mãn trong xã hội và đã đóng góp một phần cho phong trào chống chiến tranh Việt Nam buộc tổng thống Nixon bãi bỏ lệnh quân dịch năm 1973.
Trung sĩ Finelli muốn một chế độ quân dịch trong đó mọi công dân đến tuổi dù là con tổng thống, nghị sĩ, dân biểu, thống đốc, giàu hay nghèo đều phải trình diện phục vụ dưới cờ trong thời gian quy định, và nếu cần cùng chết bên cạnh những thanh niên gốc gác bình dân khác, như những thanh niên trong gia đình họ Roosevelt và họ Kennedy trong trận thế chiến lần thứ 2.
Chỉ lúc đó, lúc mà những bất hạnh của chiến tranh được mọi tầng lớp nhân dân chia xẻ đồng đều, sức mạnh của quốc gia mới được triển khai, và chúng ta mới có thể chiến thắng.
Trung sĩ Finelli kết luận: “Một nền dân chủ không thể chiến thắng một cuộc chiến tranh dai dẵng, như cuộc chiến chống khủng bố này, nếu chỉ những người tình nguyện phải đổ máu.”
Sept. 14, 2007