Hôm nay,  

Cá Orange Roughy Và Cholesterol

18/03/200900:00:00(Xem: 17367)
Cá ORANGE ROUGHY và CHOLESTEROL
DS Trần Việt Hưng
Gần đây, trong tháng 11/2008, có một số bài phổ biến trên các website, được huyển range Roughy Fish và Cholesterol
tiếp đến nhiều người , ghi rằng ' Chỉ cần ăn cá Orange Roughy liên tiếp 2 ngày, mỗi ngày 1 pound…là sẽ hạ được cholesterol từ 500 xuống mức bình thường"! và được giải thích là cá có tác dụng "clean up' sạch chất dầu mỡ trong người…vì khi đi đại tiện sẽ thấy đầy mỡ trong bồn cầu..!
Các điều ghi trên hoàn toàn không có căn bản khoa học và Orange Roughy không hề có tác dụng làm hạ cholesterol!
Orange Roughy hay Red Roughy, Deep sea perch là một loài cá lớn sống ở tầng đáy tương đối sâu (ở độ sâu từ 180 mét xuống đến 1,800 mét) nhiệt độ nước lạnh (từ 3-9 độ C) tại các vùng biển phía tây Thái bình dương, Đông Đại tây dương (từ Iceland đến Morocco), Namibia, Ấn độ-Thái bình dương (ngoài khơi Tân Tây Lan và Úc). cá đang được Tổ chức Bảo tồn Sinh vật biển (Marine conservation Society) xếp vào loài bị đánhy bắt quá mức có thể đưa đến nguy cơ tận diệt.
Orange roughy là một loại cá có giá trị kinh tế cao của Tân Tây Lan: Tân Tây Lan đã quảng cáo và đưa cá ra thị trường từ những năm cuối thập niên 70, và đặt tên cho cá dựa theo màu sắc và vảy của cá.
Theo thống kê của Cơ quan Quan Thuế -Thống Kê Hoa Kỳ thì Việt Nam chỉ nhập cảng vào năm 2000: 37 tấn cá (những năm trước đó chưa nhập và sau đó không nhập cá này nữa).
Tên khoa học và các tên khác.
Hoplostethus atlaticus thuộc gia đình cá trachichthyidae
Anh-Mỹ: Deep sea perch, Red roughy, Rosy soldier fish                                                                                          
Pháp: Hoplostète orange; Tây Ban Nha : Relojanaranjado; Đức : Granatbarsch; Nhật:
Huchidai, Orenzi-rafii.
Đặc tính  sinh học:
Thân hình bầu dục, khác dẹp. Cá có đầu to và tròn chiếm 1/3 toàn thân, mắt nhỏ chỉ chiếm khoảng 23% của đầu, phía đầu không có gai. Miện lớn và hơi nghiêng; phía trong miệng màu xanh lam-đen. Răng nhỏ. Vi lưng đơn độc có 4-6 gai và 15 đến 19 tia mềm. vi hậu môn có 3 gai và 10-12 tia mềm. Vi ngực có 17 đến 20 tia. Thân màu cam xậm; đầu đỏ hơn. Khi chết màu đổi nhanh thành cam-vàng nhạt. Vảy kha to. cá dài khoảng 75 cm (trung bình từ 20-30cm), nặng tối đa chừng 7 kg.

Cá ăn các loài giáp xác, tôm và cá nhỏ. cá có tuổi thọ khá cao, có thể sống đến 140 tuổi.
Orange roughy sống thành từng đàn tương đối day (trung bình 2.5 con trong một mét vuông. Cá di chuyển khá xa, có thể đến 200 km để đẻ trứng tại một số vùng giới hạn. Cá mái đẻ ít: chỉ từ 30 đến 50 ngàn trứng. Trứng hình cầu, đường kính 2.25 mm, được phóng trong nước để kết hợp với tinh trùng. Trứng sau khi thụ tinh, nổi trong vùng nước sâu 200m để phát triển và cá bột sau khi nở sẽ xuống sâu để sinh sống. Thời gian thụ tinh và nở kéo dài từ 10-20 ngày. Orange roughy tăng trưởng khá chậm, mất từ 2-30 năm để trưởng thành.
Tổng sản lượng đánh bắt trên thế giới, theo FAO, năm 1999 là 36 ngàn tấn, trong đó Tân Tây Lan chiếm 23 ngàn và Úc 7 ngàn tấn. Hoa Kỳ nhập mỗi năm 8,600 tấn.
Thành phần dinh dưỡng:
100 gram phần ăn được (bỏ xương) chứa:
- Calories 65 g 
- Chất béo 0.66g
- Bảo hòa vết  
- Chưa bão hòa mono 0.44 g
- Chưa bảo hòa poly vết 
- Cholesterol 18.7 gram
- Chất đạm 12.5 
- Sodium 54 mg
- Potassium 280 mg 
- Magnesium 28 mg
- Vitamin B12 1.87 mcg 
- Niacin 2.82 mg
- Vitamin B6 0.33 mg  
- Riboflavin 0.11 mg
- Thiamin 0.11 mg
Xét về phương diện dinh dưỡng, Orange roughy được xếp vào nhóm cá chứa ítcholesterol, cung cấp nhiều chất đạm và các vitamin như B6, B12. Lượng acid béo
omega-3 tương đối thấp.
Các nghiên cứu khoa học ghi nhận:
Da, xương và bong bóng của cá Orange roughy đề chứa một lượng chất béo khá cao (20% trọng lượng mỗi bộ phận). Chất béo này phần lớn thuộc loại esters sáp. Các esters này có dây Carbon dài đến 34-40 C. Trong khi đó gan và trứng của cá lại chứa các acid béo loại glycerolipids bình thường (Lipids số 18-1983)
Nghiên cứu tại Đại Học Otago (Tân Tây Lan) và Đại Học San Diego State University về Vấn đề biến dưỡng các esters-sáp trong cá Orange roughy ghi nhận chất béo từ các mô mỡ của cá thuộc loại hợp chất phức tạp trong các nhóm triacylglycerols vàphospholipids. các hợp chất này chứa nhiều palmitate và oleate, đồng thời được khử thành cac alchohols béo. Riêng nơi bong bóng cá các esters-sáp chứa lượng khá cao hợp chất palmitate (Marine Biology Số 105- 2005).
Khi tiêu thụ lượng cao Orange roughy (1 pound), cơ thể không thể tiêu hóa được các esters-sáp trong cá nên đã thải các chất béo này theo phân! (Cũng như trường hợp ăn cá Escolar 'Lepidocybium flavobrunneum'  và cá Oilfish 'Ruvettus pretiosus', sẽ dễ bị tiêu chảy do cơ thể khôïng tiêu hóa được các chất béo có phân tử lượng cao trong mỡ của cá).
Tài liệu sử dụng:
- FAO Fish Species Fact Sheets
- Orange Roughy: Monterey Bay Aquarium Seafood Watch
- Fish Base: Hoplostethus atlanticus
- Prevention Magazine Nutrition Advisor

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.