Kỷ niệm Ngày Tang Yên Báy.
(Washington, DC - VTN) Nhằm kỷ niệm 76 năm ngày Tang Yên Bái, Thành Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Hoa Thịnh Đốn đã trang trọng tổ chức buổi lễ tại thành phố Gaithersburg, Maryland vào trưa Chủ Nhật 18/7/2006.
Buổi lễ được đặc dưới sự điều khiển của Ông Trần Tử Thanh cùng sự hiện diện của các thành viên kỳ cựu của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Trong nghi thức tưởng niệm Cụ Phan Vỹ đã đọc bài văn tế có đại ý nói về công đức và sự hy sinh của 13 nhà ái quốc trong số này có: Bùi Tử Toàn, 37 tuổi, nông dân, sinh quán tại làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Bùi Văn Chuẩn, 35 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Bái. Nguyễn An, 31 tuổi , thuộc Binh đoàn Yên Bái. Hà Văn Lao, 25 tuổi thợ hồ. Đào Văn Nhít thuộc Binh đoàn Yên Bái. Ngô văn Nhu thuộc Binh đoàn Yên Bái. Nguyễn Đức Thịnh, thuộc Binh đoàn Yên Bái. Nguyễn Văn Tiềm thuộc Binh đoàn Yên Bái. Đỗ Văn Xứ, thuộc Binh đoàn Yên Bái. Bùi Văn Cửu, thuộc Binh đoàn Yên Bái. Nguyễn Như Liêm tức Ngọc Tỉnh, 20 tuổi học sinh, quán làng Cao Mại, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Phó Đức Chính, nhà cách mạng họ Phó được thực dân cho nằm ngửa để xem lưỡi dao rớt xuống như thế nào" Cuối cùng là Nguyễn Thái Học.
Cũng tại Yên Bái, 9 ngày trước đó (ngày 8/6/1930) các nhà ái quốc của VNQDĐ đã bị Pháp hành quyết gồm có: Đặng Văn Lương, Đặng Văn Tiệp, Nguyễn Thanh Thuyết, Ngô Hải Hoằng tại Yên Bái. Sau đó vào ngày 5 ngày (22 tháng 11 năm 1930), Pháp đã xử chém Nguyễn Văn Toại và 4 đồng chí của Ông tại Phú Thọ. Và vào tháng 12 cuối năm 1930, Pháp xử chém Đặng Trần Nghiệp, tức Ký Con, và 6 Đảng Viên VNQDĐ tại ngay trước cổng ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội.
Một năm sau đó, vào ngày 23 tháng 6 năm 1931, Pháp đã xử chém nhà ái quốc Trần Quang Diệu và 6 đồng chí của Ông tại Hải Dương. Ngày sau khi hành quyết các nhà yêu nước Việt Nam tại Yên Bái, Pháp dã chôn tập thể tại ngôi mộ thuộc thị xã Yên Bái, cách nhà ga xe lửa khoảng một cây số, và cho lính canh giữ đến cuối năm 1930. Vào Năm 1945, quân cách mạnh VNQDĐ chiếm lại Yên Bái và cho trùng tu mộ phần cả 17 vị anh hùng bị chém tại đây và lập đền thờ kỷ niệm từ thời bấy giờ.
Trong phần huấn từ tại buổi lễ, Ông Trần Tử Thanh đã nhắc lại "Trong suốt chiều dài đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam, VNQDĐ còn phải đương đầu với Hồ Chí Minh và CSVN. Trong lịch sử đã ghi rất rõ dã tâm của HCM khi Ông tiến hành kế hoạch nhuộm đỏ VN và cùng lúc tiêu trừ các đảng phái Quốc Gia để đi đến độc đảng và độc tài cai trị đất nước. Do đó Ngày Tang Yên Bái không chỉ nhắc nhở chúng ta phải noi gương tiền nhân mà còn phải thi hành sứ mệnh cách mạnh xây dựng một đất nước mà Dân Tộc phải Độc Lập, Dân Quyền được Tự Do và Dân Sinh luôn Hạnh Phúc.". Ôn Trần Tử Thanh còn cho biết thêm, chính Ông Hồ đã vay mượn tôn chỉ này khi phát động chiến dịch cưởng chiếm Việt Nam.
Và dưới đầy là thư của Nguyễn Thái Học được đăng trên trang nhà Nguyễn Thái Học Foundation, http://www.nguyenthaihocfoundation.com/thu1.html
Thư của Nguyễn-Thái-Học viết cho Hạ-Nghị Viện Pháp
"Các ông Nghị-viên!
"Tôi ký tên dưới đây là Nguyễn-Thái-Học, người Việt-Nam, 26 tuổi chủ tịch và sáng-lập viên của Việt Nam quốc Dân Đảng. hiện bị bắt và giam ở ngục Yên Báy Bắc-kỳ, Đông-dương, trân trọng bày tỏ như sau này:
"Theo công-lý, ai cũng có quyền bênh vực tổ quốc mình khi bị các nước khác xâm-lược, và theo nhân đạo, ai cũng có nghĩa vụ phải cứu vãn đồng bào ở trong vòng nguy hiểm, khó khăn. Như tôi, tôi thấy rằng Tổ quốc tôi bị người Pháp các ông chiếm lĩnh hơn sáu mươi năm nay; tôi thấy rằng, dưới ách chuyên chế của các ông, đồng bào tôi khốn khổ vô cùng, và dân tộc tôi dần dần sẽ tiêu diệt hoàn toàn, theo luật tự-nhiên đào thải. Bởi vậy, quyền lợi và nghĩa vụ đã thúc dục tôi phải tìm hết cách để bênh-vực Tổ-quốc tôi đang bị người chiếm lĩnh, và dân tộc tôi đương ở cảnh gian nguy.
Trước hết, tôi định cùng với các người Pháp ở Đông-Dương mà làm việc cho Đồng-bào, Tổ quốc và Dân-tộc tôi, nhất là việc mở mang tri thức cùng kinh tế. Về phương diện kinh-tế, năm 1925, tôi đã gửi cho viên Toàn-quyền Va-ren một bức thư gồm có những nguyện vọng xin bênh vực và che chở cho nền công, thương bản xứ, và nhất là lập một trường Cao-đẳng Công-nghệ ở Bắc-kỳ.
Năm 1926, tôi lại gửi một bức thư nữa cho viên Toàn-quyền Đông-Dương trong có một dự án giúp cho dân nghèo có thể dễ sống. Năm 1927, tôi lại gửi cho Thống-sứ Bắc-kỳ một bức thư xin ra một tập Tuần-báo, mục đích là bênh vực và khuyến khích cho nền công, thương bản xứ. Về phương-diện tri-thức, năm 1925, tôi gửi cho Toàn-quyền Đông Dương, yêu cầu:
1) Quyền tự do mở các trường dậy không lấy tiền cho dân hạ cấp đến học, nhất là cho thợ thuyền và nông dân!
2) Quyền tự do mở các bình dân thư xã ở các làng cùng ở các tỉnh công-nghệ.
Khốn nỗi cái gì họ cũng cự tuyệt! Thư tôi chẳng thấy trả lời; dự án của tôi chẳng thấy thực hiện; các lời yêu cầu của tôi chẳng thấy ưng chuẩn, mà đến các bài tôi viết lên báo cũng bị kiểm duyệt xoá bỏ. Nếu căn cứ những chuyện cự tuyệt đó, tôi thấy rõ ràng rằng: người Pháp không hề có thực lòng với người Việt, và tôi chẳng giúp ích lợi gì được tổ-quốc tôi, đồng-bào tôi, dân tộc tôi cả, trừ phi là đuổi người Pháp ra khỏi đất nước tôi! Bởi vậy năm 1927, tôi bắt đầu tổ chức một đảng cách mạng, lấy tên là Việt-Nam Quốc-Dân Đảng. mục đích là đánh đuổi người Pháp ra khỏi nước tôi, và lập nên chính phủ Cộng-hòa Việt-Nam, gồm những người thực lòng tha thiết đến hạnh phúc của quần chúng.
"Đảng tôi tổ-chức bí mật, và đến tháng 2 năm 1929 thì bị bọn Mật-thám khám phá. Trong các đảng viên đảng tôi bị bắt một số khá lớn, và bị xử cấm cố từ 2 năm đến 29 năm, tất cả 52 người. Bị bắt nhiều, bị xử ức mặc dầu, Đảng tôi đâu có chịu hoàn toàn tiêu diệt.
Dưới quyền tôi chỉ huy, Đảng vẫn hoạt động và đi đến mục đích. Ở Bắc-kỳ nổi lên một phong trào Cách-mạng; nhất là ở Yên-Báy, đã giết chết được mấy sĩ-quan. Tổ-chức và cầm đầu cho phong trào đó, người ta buộc cho Đảng tôi. lấy cớ rằng chính tôi là chủ-tịch của Đảng dã hạ lệnh đánh. Kỳ thực thì tôi chưa hề hạ lệnh ấy, và đã đem những chứng cớ đích xác, để chứng minh rằng không, với Hội-đồng Đề-hình Yên-Báy. Vậy mà, một số đông đảng viên, hoàn toàn không biết gì đến phong trào ấy cũng bị bắt và bị buộc là có tham dự vào công việc. Chính-phủ Đông Pháp đã đốt, phá nhà họ! Chính-phủ Đông-Pháp đã cho lính đến đóng, rồi tịch thu gạo thóc của họ mà chia phần với nhau! Chẳng những đảng viên đảng tôi, phải cam chịu nỗi bất bình, - mà gọi là tàn bạo tưởng đúng hơn! -mà còn phần đông đồng bào tôi, hiền lành làm lụng ở nhá quê, để sống cái đời ngựa, trâu, cũng chịu hại lây nữa! Hiện nay trong các miền Kiến-An, Hải-Phòng, Bắc-Ninh, Sơn-Tây, Phú-Thọ, Yên-Báy, có hàng vạn người đàn ông, đàn bà, con trẻ, vô tội mà bị giết! Hoặc bởi Chính-phủ dội bom xuống! Hoặc bởi chết đói, chết khát, vì chính-phủ Đông-Pháp đã đốt mất nhà! Vậy tôi trân trọng lấy nước mắt, nhờ các ông làm cho tỏ rõ nỗi bất bình ấy, là cái nó làm cho dân tộc tôi sẽ hoàn toàn tiêu-diệt! Là cái nó làm cho mất hết danh dự nước Pháp! Là cái nó làm cho giảm cả giá trị của loài người!
"Sau nữa, tôi trân trọng bảo cho các ông biết: tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc chính biến phát sinh trong nước tôi và chỉ huy bởi Đảng tôi, từ năm 1927 đến giờ! Vậy chỉ cần giết một mình tôi là đủ mà đừng làm tội những người khác hiện nay đương bị giam ở các cửa ngục. Vì chỉ có mình tôi là thủ phạm thôi, và những người khác đều vô tội cả! Họ vô-tội, vì trong số đó thì một phần là những đảng-viên, nhưng sở dĩ vào đảng là vị họ nghe lời tôi khuyến-khích cho họ biết: thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với Nước; thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên vong quốc nô! còn ngoài ra thì là những người không phải đảng viên, nhưng bị kẻ thù hay bọn mật thám đặt điều vu cáo, hay lại vu cáo bởi những bạn hữu không chịu nổi những cách tra tấn tàn nhẫn của Công-An cục (sở mật thám) và khai bừa ra cho đỡ phải đòn! Tôi nhắc lại một lần nữa để các ông biết rằng chỉ cần phải giết một mình tôi, hay còn chưa đủ hả thì chu di cả nhà tôi, nhưng xin các ông tha cho những người vô tội như trên đã nói.
"Sau cùng, tôi kết luận bức thư này mà nói cho các ông biết rằng: Nếu người Pháp muốn ở yên Đông-Dương, mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mạng thì: phải thay đổi cái chương trình chính-trị hung tàn và vô đạo hiện hành ở Đông-Dương; phải cư xử cho ra vẻ những người bạn của giống Việt-Nam, chứ đừng có lên bộ là những ông chủ bạo-ngược và áp-chế; phải để lòng giúp đỡ cho những nỗi đau khổ về tinh thần và vật chất của người Việt-Nam, chứ đừng có khắt khe kênh kiệu nữa!
"Các ông Nghị!
"Hãy nhận lấy tấm lòng tôi trân trọng cám ơn.
Nguyễn Thái Học”