Chương trình thực hiện theo thứ tự sau:
08:30 - Môn đồ hiếu quyến vân tập.
09:00 - Quan khách quang lâm
A. KHÓA LỄ
09:10 - Môn đồ hiếu quyến làm lễ dâng hương và đảnh lễ ba lạy.
09:15 - Môn đồ hiếu quyến tọa thiền (1 tiếng chuông bắt đầu và một tiếng chuông chấm dứt).
09:30 - Môn đồ hiếu quyến đi nhiễu linh cửu 3 vòng.
B. NGHI THỨC
09:40 - Nghi lễ di quan bắt đầu (Thầy Truyền Vệ)
- Tuyên đọc tiểu sử cố Hòa Thượng Viện chủ (đạo hữu Tâm Diệu và đạo hữu Truyền Hồ)
- Lời cảm niệm ân sư của đại diện đệ tử xuất gia (thầy Trí Long)
- Lời cảm niệm ân sư của đại diện đệ tử tại gia (đạo hữu Tâm Diệu)
- Phát biểu tưởng niệm của Hòa Thượng Thích Giác Nhiên
- Tuyên đọc các điện văn phân ưu của các tổ chức giáo hội
- Lời cảm tạ của Ban Tổ Chức (thầy Truyền Vệ) (đạo hữu Truyền Hồ tiếng Hoa)
10:30 - Lễ di quan tiến hành.
Cư Sĩ Tâm Diệu đã đại diện đệ tử tại gia đọc bài cảm niệm như sau:
LỜI CẢM TẠ SƯ PHỤ
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Kính bạch chư tôn đức Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại đức Tăng Ni cùng toàn thể quý Phật tử.
Kính thưa chư liệt vị,
Trước hết chúng con xin trân trọng kính chào quý vị và xin phép chư liệt vị cho con có đôi lời tâm huyết tác bạch với vị thầy khả kính của chúng con.
Kính bạch Sư Phụ,
Giờ phút thầy trò không còn nhìn thấy nhau trong kiếp này đã gần tới, con, Tâm Diệu, được sự ủy thác của một số huynh đệ đồng tham, kính cẩn dâng lên Sư phụ những lời tri ân sâu xa, bày tỏ tấm lòng thành kính của chúng con đối với công ơn lớn lao của Sư Phụ.
Ra đời được là một Phật tử, chúng con tự hiểu đã rất có phước. Được đọc kinh điển Đại Thừa liễu nghĩa, lại là một phước đức lớn hơn. Nhưng biển Phật học mênh mông rộng lớn muôn trùng, chúng con đang cố công mò mẫm tìm tòi, thì phước đức biết bao, Sư Phụ xuất hiện như ngọn hải đăng, chỉ thẳng cho chúng con, đường về bến giác.
Nhờ ơn Sư Phụ khai thị,
* Chúng con biết được rằng cốt tủy của đạo Phật là chỉ đường cho chúng sinh ra khỏi dòng sông luân hồi sinh tử, giác ngộ lại Bản Thể Diệu Minh Chân Tâm, Tri Kiến Phật.
* Chúng con biết được rằng Bản Giác (Phật Tâm) của chúng sinh vốn đã thành sẵn, thí dụ như vàng quặng. Bỗng một niệm mê mờ khởi lên, rồi vọng tưởng sinh diệt trùng trùng, huyễn hiện lên mọi cảnh giới hiện tượng của tâm ý thức, tạo nghiệp, thọ khổ, trôi lăn vào dòng sông sinh tử. Muốn chấm dứt thì phải thanh lọc cho đến “tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu”, “lìa được huyễn”,"ý căn thanh tịnh như hư không” thì ngay đó là cảnh giới Phật.
* Chúng con biết được rằng tin sâu nhân quả là điều kiện tiên quyết của bất cứ người nào muốn chuyển hóa, muốn tu hành. Tin sâu nhân quả mới có thể dũng mãnh đi trên con đường, dù khó khăn, nhưng biết rằng đã gieo nhân thì chắc chắn sẽ có quả.
* Chúng con biết được rằng tâm lực yếu đuối van xin, ỷ lại, mê tín thần quyền không phải là sản phẩm của Đạo Giác Ngộ mà là thói quen xấu còn rơi rớt lại từ thời sơ khai, con người cảm thấy bé nhỏ trước thiên nhiên nên sợ cả từ gốc cây, cục đá.
* Chúng con biết được rằng đã vì Nhất Niệm Vô Minh mà trôi lăn vào vòng luân hồi sinh tử, thì con đường đi tới Minh Tâm Kiến Tánh sẽ chấm dứt được sinh tử luân hồi, trở về Bản Thể.
Để tới Minh Tâm Kiến Tánh, Sư Phụ đã dạy chúng con khán câu Thoại Đầu dũng mãnh, kiên cố, miên mật, cho tới khởi được Nghi Tình, khối nghi đó sẽ tăng lên cho đến lúc gặp cơ duyên, nghi tình sẽ tan rã, ngay sát na đó, sẽ “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, chẳng những chỉ ngũ uẩn, mà cả hư không cũng vô sở hữu, vô sở trụ, đó gọi là chứng đạo, sẽ “độ nhất thiết khổ ách”, vĩnh viễn chấm dứt tất cả khổ.
Kính bạch Sư Phụ,
Giờ thầy trò chia tay đã tới. Dù trong kiếp này không còn nhìn thấy Sư Phụ, nhưng chúng con tin rằng Sư Phụ đã tự do tự tại như hư không. Xin Sư Phụ chứng minh lòng thành kính tri ân sâu xa của chúng con, và lời chúng con nguyện sẽ tu hành cho tới Minh Tâm Kiến Tánh.
Và dưới đây là tiểu sử Thiền Sư Thích Duy Lực, Tọa Chủ Từ Ân Thiền Đường Hoa Kỳ
A. THỜI THƠ ẤU
Sư hiệu DUY LỰC, tự GIÁC KHAI, thế danh LA DU sanh ngày 05 tháng 05 năm 1923, là người làng Long Yên, huyện Phong Thuận phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Cha tên là La Xương và mẹ tên là Lưu Thị, làm nghề nông. Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 1, thì Sư phải nghỉ học, theo cha sang Việt Nam sinh sống, lúc đó Sư được 16 tuổi (1938). Trú tại tỉnh Cần Thơ, Sư thường tranh thủ tự học trong lúc rảnh rỗi. Đến năm 26 tuổi (1948), thi đậu bằng giáo viên Hoa Văn và được mời dạy ở các trường tiểu học tỉnh Tà Keo Cao Miên (nay là Campuchia), và trường Khải Trí ở Cần Thơ, Trường Cái Vồn ở Vĩnh Long, Việt Nam trải qua 10 năm. Năm 1958, sau khi lấy bằng Đông Y Sĩ cấp 1, Sư được mời làm đông y sĩ cho tiệm thuốc Tế Ngươn Đường Cà Mâu và Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm tỉnh Cần Thơ để khám bệnh miễn phí cho dân trong thời gian 8 năm.
Trong tủ sách của Cư Sĩ Lâm có bộ Kinh Tục Tạng gồm 150 quyển, lúc đầu Sư định đọc hết toàn bộ, nhưng trải qua một năm chỉ xem được 7 quyển, sau quyết định chỉ xem phần Thiền Tông. Lúc đó Sư theo Pháp sư DIỆU DUYÊN tham học Tổ Sư Thiền (Pháp Sư Diệu Duyên đã nhiều năm thân cận Lai Quả Thiền Sư và Hư Vân Thiền Sư, và ngài tịch vào năm 1976 tại Chùa Thảo Đường Việt Nam).
B. THỜI KỲ XUẤT GIA HỌC ĐẠO
Vào mùng 08 tháng 02 năm 1973, Sư được Hòa Thượng, thượng Hoằng hạ Tu cho xuất gia tu học tại chùa Từ Ân Quận 11 Chợ Lớn. Tháng 05 năm 1974, Sư thọ giới Tam Đàn Cụ Túc tại Chùa Cực Lạc Malaysia.
Từ đó Sư chuyên tham câu thoại đầu “Khi chưa có trời đất ta là cái gì” trải qua nhiều năm, một hôm do đọc quyển “Trung Quán Luận” đến câu “Do có nghĩa KHÔNG nên thành tựu tất cả pháp” đốn ngộ ý chỉ “TỪ KHÔNG HIỂN DỤNG”, lại tỏ ngộ câu KHÔNG sanh nơi đại giác, như biển nổi non bọt, vô số nước hữu lậu, đều từ KHÔNG sanh khởi trong Kinh Lăng Nghiêm, với câu “Lấy VÔ TRỤ làm gốc” của Ngài Lục Tổ; “Từ gốc VÔ TRỤ lập tất cả pháp” của Ngài Duy Ma Cật vốn cùng một ý chỉ, VÔ TRỤ tức TÁNH KHÔNG, thể Chơn Như vốn KHÔNG mà tự hiển bày sự dụng; thể và dụng của Chư Phật với chúng sanh vốn chẳng hai chẳng khác, cùng khắp không gian thời gian, nơi thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt, dù là phàm phu mà sức dụng của Phật tánh chẳng kém hơn Phật, cũng chẳng từng gián đoạn, chỉ vì chúng sinh ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết.
C. THỜI KỲ HOẰNG PHÁP
Ngày mùng 2 tháng 4 năm 1977 Sư thừa lệnh ân sư (Hòa Thượng Hoằng Tu) ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền tại chùa Từ Ân đường Hùng Vương Quận 11, Sài Gòn. Hai năm sau, tứ chúng phật tử qui tụ ngày càng đông, Phật tử người Việt theo tu học pháp Tổ Sư Thiền hơn 4,000 người, mỗi lần tham dự thiền thất đều vượt trên 300 người.
Tháng 02 năm 1989, Sư di cư đến tiểu bang California, Hoa Kỳ, và sáng lập Từ Ân Thiền Đường tại Orange County. Đến thiền đường học đạo có người Tây Phương và người Á Châu, trong đó người Việt Nam đông nhất. Những năm gần đây, Sư thường được thỉnh đến các nước như Chùa Chánh Giác ở Toronto, Canada, Chùa Quan Âm ở Brisbane Australia, Hồng Kông, Tịnh Xá Đại Bi ở Đài Loan để hoằng pháp và các thiền đường ở Mỹ để giảng dạy pháp Tổ sư Thiền.
Riêng ở Việt nam, bất cứ nơi nào mời, Sư đều tùy duyên giảng dạy, như đả Thiền Thất tại chùa Từ Ân Quận 11, chùa Hưng Phước đường Cách Mạng Tháng 8 quận 3, Chùa Pháp Thành Quận 6, Chùa Sùng Đức Quận 6, Chùa Huệ Quang Quận Tân Bình, Đại Tòng Lâm, Ni Viện Thiện Hòa Bà Rịa Vũng Tầu, và tại các tỉnh Long An, Sóc Trăng, Tây Ninh Khánh Hòa, Bình Định...
Năm 1996 Sư lập một nông thiền trồng rau sạch, không dùng phân bón và thuốc sát trùng, tại Củ Chi, Sai Gòn.
Đến năm 1998, Sư đã được Ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, mời thỉnh vào Ban Hoằng Pháp Trung Ương, với cương vị Ủy Viên Ban Hoằng Pháp Trung Ương, Sư đã được Giáo Hội phân thỉnh giảng tại các Khóa Bồi Dưỡng Hoằng Pháp ngắn hạn cho các tỉnh Miền Trung tổ chức tại Bình Định, cho các tỉnh Miền Đông, TP Saigon và Miền Nam tại Văn Phòng 2 Trung Ương Giáo Hội.
Đến năm 1999 Sư thành lập phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí tại huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai cũng nhằm tùy duyên hóa độ chúng sinh, trong hoàn cảnh khó khăn của sự phát triển tôn giáo tại Việt Nam.
D. DỊCH THUẬT CÁC KINH SÁCH VÀ TRƯỚC TÁC
Ngoài ra Sư còn truớc tác, dịch thuật và chú giải từ tiếng Hán sang tiếng Việt các kinh điển và ngữ lục của Tổ sư hơn 20 loại, lượng sách phát hành tại Việt nam trên mấy mươi ngàn quyển. Các kinh sách tiếng Việt và một số bằng tiếng Hoa được phát hành bao gồm:
DỊCH THUẬT và CHÚ GIẢI:
Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Già, Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Viên Giác, Kinh Duy Ma Cật, Đại Huệ Ngữ Lục, Tham Thiền Cảnh Ngữ (tác giả: Hòa Thượng Bác Sơn), Thiền Thất Khai Thị Lục (tác giả: Lai Quả Thiền Sư), Bá Trượng Quảng Lục và Ngữ Lục, Truyền Tâm Pháp Yếu, Trung Phong Pháp Ngữ, Cội Nguồn Truyền Thừa, Chư Kinh Tập Yếu, Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải.
TRƯỚC TÁC:
Góp Nhặt Lời Phật Tổ và Thánh Hiền, Công Án Của Phật Thích Ca & Tổ Đạt Ma, Phật pháp với Thiền Tông, Đường Lối Tham Tổ Sư Thiền, Danh Từ Thiền Học, Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, Yếu Chỉ Trung Quán Luận, Yếu Chỉ Phật Pháp...
D. VIÊN TỊCH
Sư biện tài vô ngại, tùy duyên hóa độ và tận tụy với hoằng pháp lợi sanh, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc. Người xưa có nói “Bồ Tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”, (Bồ Tát luôn luôn vì lợi ích chúng sanh mà cứu giúp) thật khế hợp với Sư biết bao.
Hóa duyên kỳ tắc, Sư thu thần thị tịch vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 07-1-2000 tại California Hoa Kỳ,tức ngày mùng 01 tháng 12 năm Kỷ Mão, nhằm lúc 01 giờ 30 phút giờ Việt Nam ngày 02tháng 12 năm Kỷ Mão (tức ngày 08 tháng Giêng năm 2000).