Hôm nay,  

Bác Hồ, Cụ Hồ… Tại Sao Không Anh Hồ Chí Minh?

15/09/201800:00:00(Xem: 4557)
Nguyễn Thị Cỏ May

 
Có cơ hội tưởng cũng nên đặt lại cách gọi Hồ Chí Minh sao có thể nghe cho ổn. Cho phù hợp với tập quán thuần túy Việt Nam. Bác, cụ, Chủ tịch, …hay còn cái gì nữa mới đúng hơn?

Tiếng «Bác» có từ lúc nào?

Trong nấc thang quan hệ gia đình và xã hội Việt Nam, người lớn tuổi hơn cha, mẹ của mình (theo ngoài Bắc) thì phải gọi là bác. Trong Nam, anh của cha, mới gọi bác. Anh của mẹ, cũng như em của mẹ đều gọi bằng cậu. Mẫu mực quan hệ gia đình Việt Nam xưa nay được đem áp dụng vào cách ứng xử trong quan hệ xã hội nên xã hội Việt Nam rất hài hòa như một gia đình lớn. Đúng là gia đình là nền tảng xã hội.

Theo vài báo mạng đang lưu hành, thì sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, hai tiếng «Bác Hồ» bắt đầu được cho phổ biến để dân chúng quen dần sau khi thấy ông ấy thường ký «Bác Hồ» thư từ gởi cho trẻ con. Nhưng cụ thể hơn hết là thư ông ấy gởi cho Ban Âm nhạc Vệ quốc quân ngày 6-1-1946, báo Cứu quốc ngày 7-1-1946, đều ký «Bác Hồ». Và thư sau đó ký «Bác Hồ» là thư của ông gởi cho thiếu niên hợp tác xã măng non thôn Phú Mẫn, xã Hàm sơn, tỉnh Hà Bắc, ngày 19-5-1969. Sau cùng, ở một tầm mức quan trọng hơn, có tính như chánh thức, là thư của ông gởi cho Ban Chấp hành đảng bộ đảng Lao động Việt Nam tỉnh Nghệ an ngày 21-7-1969 cũng chính ông ký «Bác Hồ».

Trên một trang báo mạng khác, nguồn gốc gọi «Bác» lại khác hơn. Gọi «Bác» có trước năm 1945. Nó xuất hiện từ hội nghị Trung ương lần thứ VIII, tháng 5 năm 1941 ở hang Pác Bó, Hà Quang, tỉnh cao Bằng. Trong số đảng viên cộng sản về dự hội nghị có Nguyễn Ái Quốc. Lần đầu tiên gặp Nguyễn Ái Quốc, mọi người không biết phải xưng hô cách nào cho phải phép.

Theo hồi ký của Hoàng Quốc Việt, lúc đó, mọi người đều gọi Hồ Chí Minh là «đồng chí», hay «cụ». Sau thấy anh Trường Chinh và anh Thụ dùng tiếng «Bác», thì mọi người đều thấy gọi «Bác» là hợp với lòng mình. Nên từ đó, mọi người đều thưa với Bác bằng cái tên thân yêu. Tiếng «Bác» được dùng rộng rãi hơn từ sau năm 1945. Nhưng Trường Chinh và Thụ gọi «Bác», có phải theo phép xã giao người Bắc gọi «bác» là «anh» hay không? Bác có nghĩa là bác của con mình.

Sau này tên gọi «Bác» còn được ký một số văn thư gởi Trung ương đảng và cả Bộ Chánh trị. Như vậy từ đây, tiếng “Bác» được chính Hồ Chí Minh chánh thức hóa để mọi người tôn xưng mình, đưa mình lên hàng cha chú? Và đồng thời cũng để tự thỏa mãn tính «ta đây» sẵn có, vừa phục hận cho thời gian dài của kẻ tự thân không có gì cả, sống vất vưởn, từ chạy đầu này tới luồn ngỏ nọ để ngoi lên (dựa hơi cụ Phan Chu Trinh quen biết cha mình, chạy theo các Cụ ở Gobelins, Paris 13e, vô Đảng Xã hội, tức đảng «xách-dép-vô», phát âm theo SFIO=Section Française Internationale Ouvrière, nhảy qua Đệ III Quốc tế, bám sát Staline và Mao Trạch-đông cho tới chết)!

Thật ra phải thừa nhận Hồ Chí Minh là nguời «tài ba», «tay trắng làm nên sự nghiệp lớn»! Nhưng ông là một con người như thế nào? Đạo đức hay gian ác? Sự nghiệp của ông lập nên và để lại là một ơn ích hay một tai vạ cho mọi người, cho đất nước?

Nên gọi Hồ Chí Minh như thế nào?

Theo văn hóa ứng xử Việt Nam, có lẽ vì dựa theo truyền thuyết một cái bọc nở ra trăm con, mà người ta gọi «bác» người lớn tuổi hơn cha của mình, “chú”, người kém tuổi cha, gọi “anh, chị» người lớn tuổi hơn mình,… như trong quan hệ gia đình. Người Tàu và Tây phương không có cách xưng hô cùng “một nhà” như Việt nam ta.

Có thể gọi Hồ chí Minh bằng «bác», chữ «bác» phải viết chữ thường, khi người gọi dĩ nhiên phải nhỏ tuổi hơn ông ấy và nhứt là lúc ông còn sống. Còn «bác Hồ», tự cách gọi này là không đúng theo Việt nam, mà dành cho mọi người, thì hoàn toàn không đúng hơn nữa bởi có những người tuổi xấp xỉ với Hồ Chí Minh và cả những người lớn tuổi hơn. Nên nhớ lúc về Hà nội năm 1945, ông mới có 55 tuổi nếu tính theo năm sanh dỏm 1890.

Vả lại, nếu gọi «bác», thì phải «bác Minh» hoặc «bác Hồ Chí Minh». Tuyệt nhiên không thể gọi «Bác Hồ». Bởi Việt nam không có chế độ phong kiến như Tàu và Âu châu. Việt nam có phong tước cho người có công lớn với triều đình, có cấp ruộng đất để sanh sống nhưng không có tính vĩnh viễn và vẫn có thể bị triều đình lấy lại khi phạm tội. Và ở Vìệt nam, có nhiều người đủ mọi thành phần mang họ Hồ. Trong lúc đó, ở Tàu và Âu châu, dưới chế độ phong kiến, có những vương quốc, những gia trang mang họ người chủ là ông Hoàng, bà Chúa, Gia chủ. Những người này mới có «họ» để biết họ là ai, thuộc giòng dõi nào. Còn thứ dân chỉ cần có tên riêng để gọi sai bảo mà thôi. Khi xã hội phát triển, sự nhận diện dân chúng trong khu vực trở thành phức tạp nên nhà vua, từ thế kỷ XII, mới cho phép thứ dân có họ. Ngoài những họ gần gũi với vua chúa, giới quí tôc, tăng lữ, có thêm những họ do nghề nghiệp đang  làm, nơi đang cư ngụ, nhơn diện, … Điều này cho thấy sự khác biệt giữa Việt nam, một nước có văn hóa nhơn bản với Tàu và Âu châu, cùng thời đó, lại thiếu đặc tính này.

Nhưng có điều không giống ai vì tiếng gọi “bác” cũng bị độc quyền. Có những người, cha kém tuổi hơn các ông Trường Chinh, Phạm văn Đồng, … cũng vẫn phải gọi các ông này là “chú” thay vì “bác” cho đúng phép. Cái chế độ «bác» này mới thật ghê gớm. Cho tới sau 30/04/75, người trẻ miền Bắc vào Nam chỉ biết gọi mọi người, cả lớn tuổi hơn cha mình rất nhiều đều bằng “chú”. Dường như họ không biết gọi ai bằng «bác» ngoài «bác Hồ» của họ hết cả.

Thế mới thấy cả tiếng “bác” cũng bị «bác Hồ» ta chôm một cách độc đoán làm của riêng nữa!

«Hồ Chí Minh» chỉ là một tên gọi mang tính hoàn toàn chánh trị, thì tại sao không gọi ông ấy là «đồng chí, đồng chóe» vì cùng đảng vói nhau, như đối với những đảng viên khác? Nội qui đảng có ghi ngoại lệ này không?

Tóm lại, khi đối thoại với ông thì tùy quan hệ tuổi tác và vai vế mà xưng hô. Còn ngày nay, ông đã chết thì khi viết về ông, tưởng chỉ nên gọi «Hồ Chí Minh» là đủ và phải phép lắm rồi.

Báo chí tây phương, khi viết về Giáo hoàng Vatican, cũng viết tên. Viết hay thưa “Đức Thánh Cha” chỉ khi đối thoại với ông mà thôi.

Hồ Chí Minh có bao nhiêu tên khác nhau?

Theo bài «Sưu tầm tên gọi, bí danh và bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ» trên Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam (7-10-2015) thì Hồ Chí Minh có 175 tên, từ tên khai sanh Nguyễn Sinh Cung, năm 1890, … đến tên cuối cùng trong bảng danh sách là Trần Dân Tiên. Tác giả bài báo, theo nề nếp viết báo đảng, đã không thể không thổi phòng lãnh tụ: “Mỗi tên gọi, bí danh hay bút danh của Người đều có một ý nghĩa riêng, phục vụ lợi ích cách mạng; phần nào cũng đã phản ánh nhân cách, tư tưởng lớn lao của Người về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân....”.

Tác giả có lưu ý độc giả là còn 30 tên, bút danh, bí danh nữa của bác nhưng chưa kịp kiểm soát trong trường hợp nào có những tên này. Khi có đủ chi tiết chính xác, Ban sưu tầm sẽ phổ biến.

Hồ Chí Minh, ghê chưa?

Nhưng trong bảng danh sách này, có tên Trần Thắng Lợi, số 118, đáng chú ý riêng vì tên này là tác giả bài «Đảng Ta» đăng trên Tạp chí Sinh Hoạt Nội bộ số 13, tháng 1 năm 1949, Báo Điện tử Đảng cộng sản đăng lại, trong đó tác giả có ý nói Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là 2 người khác nhau: «Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu, cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng tháng Tám. Để giữ bí mật, các đại biểu khai hội bên sân đá banh của người Tàu. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn bạc về Đảng.

Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng».


Khi tìm hiểu về Hồ Chí Minh, ngưòi tìm hiểu sẽ gặp nhiều bóng tối bao trùm lên con người đó nên khó thấy rõ điều mình muốn biết. Về Hồ Chí Minh, cùng trên báo đảng, có hai nguồn thông tin trái ngược nhau. Trên đây, ở phần nói về cách gọi «Bác» có từ lúc nào, có chi tiết nói tại Hội nghị Trung ương VIII tháng 5/1941 ở hang Pác Bó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên nên mọi người lúng túng không biết phải gọi sao cho thích hợp. Trong Hồi ký của Hoàng Quốc Việt, thì mọi người bắt chước theo cách gọi của Trường Chinh và Thụ gọi là «Bác» và từ đó có tên gọi «Bác Hồ». Cứ theo bản văn này, thì Nguyễn Ái Quốc và Hồ chí Minh là một người.

Vả lại, trong câu «…ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi …”, tôi, có lẽ phải hiểu đó là Trần Thắng Lợi. Trong bản văn đó, không thể hiểu đó là Hồ chí Minh. Về sau này, người ta mới nói rõ Trần Thắng Lợi chính là Hồ Chí Minh. Điều này cho thấy tại sao Hồ Chí Minh có nhiều tên, nhiều bí danh và bút danh.

Nhìn lại Hồ Chí Minh có lẽ là người duy nhứt có tới 175 tên khác nhau, mà còn 30 tên nữa sẽ được bổ sung, thì đủ thấy ông là một con người tránh sự thật, tìm cách ẩn núp, gây hoang mang cho mọi người. Do bản tánh gian dối, láo cá vặt, lại còn được đào tạo chuyên nghiệp tại trường Quốc tế Lénine về tình báo. Hồ Chí Minh là nhơn viên tình báo của Quốc tế cộng sản, chớ không phải ông được đào tạo làm nhà lãnh đạo cộng sản. Mà làm tình báo thì chỉ biết nhiệm vụ và mục tiêu, không có vấn đề quốc gia, dân tộc gì hết!

Tại trường Quốc tế Lénine, mọi người được học trước hết 2 điều căn bản là «âm mưu cướp chánh quyền» và «nhận diện địch» ngoài những điều khác như bí mật, dấu lý lịch thật, dùng lý lịch giả, tuyên truyền, phản tuyên truyền, …(Céline Marangé, Le Communisme vietnamìen, trg 103-104, Presses de Sc.Po, Paris, 2012)

Nếu Hồ Chí Minh thật tình muốn khai tử tên Nguyễn Ái Quốc thì cũng dễ hiểu vì ông vẫn khó gột bỏ nỗi ám ảnh về cái tên đó quá lớn, nó vượt hẳn tầm vóc của ông. Hơn nữa, cái tên đó hàm chứa cả ý nghĩa tiểu tư sản, trí thức, nặng văn hóa chánh trị Tây. Cụ Phan Chu Trinh đã về nước, tiếp theo các cụ Nguyễn Thế Truyền, Phan văn Trường cũng về nước. Cụ Nguyễn Thế Truyền sau sống, làm báo Thân Dân ở Sài gòn, ứng cử Phó Tổng thống với Nguyễn Hòa Hiệp năm 1967. Đây là những nhơn chứng cho cái tên Nguyễn Ái Quốc thì không gì tốt hơn cho Hồ Chí Minh là vứt đi cái tên Nguyễn Ái Quốc kia vốn đã không phải của mình.

Nhưng điều quan trọng đáng nói, nó quan trọng vì nó liên hệ tới cái gọi là «tư tưởng hồ chí minh», đó là sản phẩm của dối trá, chuyên gạt gẫm của Hồ Chí Minh. Ngày 2-9, gọi là ngày lễ độc lập, trước dân chúng đông đảo, ông long trọng tuyên bố «Tất cả mọi người đều sanh ra có quyền bình đẳng»! Đúng, vì ngày nay, toàn dân đều có hình bác ta treo trong nhà!

Tại sao không gọi Anh Hồ Chí Minh?

Mười Trí, tức Huỳnh văn Trí, dân Bà Quẹo, sau khi vượt ngục Côn nôn về tới đất liền, bèn cùng uống nước tiểu của nhau, thay vì trích huyết ăn thề, kết nghĩa anh em chết sống với Bảy Viễn (Lê văn Vìễn), Năm Bé và Tư Nhị. Kịp lúc phong trào Nam bộ kháng chiến nổi lên, họ cùng  tham gia kháng chiến chống Pháp ở Khu 7, lập ra Chi Đội Bình Xuyên. Năm 1949, Bảy Viễn về Sài gòn với Quốc trưởng Bảo Đại, Mười Trí ở lại với Việt Minh, được Nguyễn Bình ủy nhiệm thuyết phục Bảy Viễn đừng bỏ đi nhưng thất bại. Mười Trí, thành phần xã hội khác hơn Bảy Viễn nên dễ bị ảnh hưởng cộng sản trong lúc đó Bảy Viễn quyết liệt chống cán bộ cộng sản được Hà nội gởi vào để kìm kẹp hàng ngũ kháng chiến trong Nam phải đi theo sát đuờng lối và mục đích  cộng sản. Bảy Viễn ra lệnh cho kháng chiến quân Bình Xuyên hể biết chánh trị viên Hà nội là cho đi mò tôm ngay. Tuy theo cộng sản, sau khi Bảy Viễn về thành, vì cùng anh em ăn thề với nhau, nên Mười Trí vẫn bị Nguyễn Bình nghi ngờ, đưa đi Miền Tây, hoạt động với danh xưng Sư thúc Hòa Hảo, để lôi kéo Năm Lửa (Hòa Hảo) về theo cộng sản. Trước khi đi, Mười Trí làm tiệc từ giả anh em Khu 7. Nhơn có phái đoàn Miền nam ra Bắc họp Đại Hội do Phạm Hùng hướng dẫn, Mười Trí viết thư nhờ Phạm Hùng cầm ra gởi Hồ Chí Minh để trần tình tấm lòng mình chỉ có theo chánh phủ trung ương Hà nội. Thư không niêm để phái đoàn có thể đọc.

Phạm Hùng mở thư ra đọc :

“Bức tâm thơ kính gởi anh Hồ Chí Minh.

Thằng em của anh là Mười Trí gởi thơ này chúc anh khỏe mạnh. Thằng Bảy Viễn đã đầu Tây rồi, thằng em của anh rất lấy làm buồn vì không ngăn cản được nó. Nhưng thằng em của anh hứa chắc với anh là thằng em của anh sẽ tiếp tục kháng chiến cho tới thắng lợi cuối cùng.

Dân giang hồ một khi đã theo cách mạng là nhứt định đi tới cùng, không bao giờ sanh nhị tâm.

Ký tên Huỳnh văn Trí

Trung đoàn trưởng Trung đoàn 304” (*).

Phạm Hùng đọc qua, cảm thấy dội ngược vì chưa bao giờ có ai dám gọi Hồ Chí Minh bằng anh. Đưa cho tất cả thành viên phái đoàn lần lược đọc, ai cũng lắc đầu, im lặng. Tức ý muốn nói không nên đưa thơ cho Hồ Chí Minh.

Sau cùng, Hà Huy Giáp nhận xét nội dung thơ hoàn toàn đúng sự thật. Còn cách nói, tuy nói với «Bác», vẫn không có gì xúc phạm, thất lễ. Mười Trí kém «Bác» 13 tuổi, có gọi «Bác» bằng anh thì cũng bình thường thôi. Trái lại, lời thơ đúng là giọng dân giang hồ nam bộ, như vậy sẽ có cơ hội để «Bác» hiểu dân giang hồ nam bộ đi theo kháng chiến.

Nghe qua lý luận của Hà Huy Giáp, mọi người thấy an tâm nên đều bằng lòng nên đưa thơ của Mười Trí cho Hồ Chí Minh.

Khi gọi Hồ Chí Minh bằng anh, không biết có phải Mười Trí nghĩ Hồ Chí Minh cũng cùng gốc đi «hát» (**) như Mười Trí hay không? Bởi anh em Bình Xuyên đều gốc giang hồ, khi phong trào kháng chiến chống Tây phát động ảnh hưởng sâu xa đến lòng yêu nước ở họ, tất cả đều  từ bỏ đời sống cũ, nhiệt tình tham gia kháng chiến. Trước đây giang hồ vì họ muốn sống hào hùng, ngoài vòng pháp luật.

Nên nhớ những người đi theo Hồ Chí Minh làm cách mạng cộng sản, ngoài lớp trí thức tiểu tư sản ra, phần lớn còn lại đều gốc bụi đời, du thủ du thực, thất học, chẳng mấy ai ý thức được tình yêu nước, và họ cũng không thấy họ sẽ bị mất cái gì khi đi làm cộng sản. Họ sẽ «có tất cả» nếu thành công, và không mất gì hết nếu thất bại (Quốc tế ca).

Nhưng nếu nghĩ Hồ Chí Minh cũng là dân giang hồ như Bảy Viễn thì  đó là một sự lầm lẫn rất lớn. Bởi Hồ Chí Minh không thể giang hồ vì thiếu tinh thần mã thượng của dân nam kỳ. Vã lại Hồ chí Minh là cộng sản, đệ tử chơn truyền của Staline và Mao. Staline được Lénine tuyển dụng nhờ thành tích ăn cướp ngân hàng và giết người không gớm tay. Hơn nữa Hồ Chí Minh  đi «hát» không phải trong phạm vi thôn xóm như Mười Trí, mà trên cả nước. Thành tích thổ phỉ của ông và cái đảng của ông là cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, sau 30/04/75 trong Nam, là đổi tiền, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới,… Ngày nay, đang đi «hát» trên ruộng đất của nhơn dân. Đảng viên lớn giàu lớn, nhỏ giàu nhỏ. Chỉ có nhơn dân lương thiện là tay trắng. Lời nói của Chu Sồi Sển, nhơn vật trong truyện «Xe lên, xe xuống» (Nguyễn Bình Phương, Diễn đàn Thế kỷ, Huê kỳ), nói với Tướng cộng sản Hà nội Chu văn Tấn «Tụi tao vì nghèo đi làm thổ phỉ. Tụi bây cũng vì nghèo, đi làm cách mạng. Tụi mình giống nhau».

Tướng Chu văn Tấn bảo không giống. Phải chăng vì ông nghĩ “tụi nó đi ăn cướp, nói rõ đi ăn cướp. Còn mình, … đi làm cách mạng mà!".

 
Ghi chú:

(*) Nguyên Hùng, Bảy Viễn, Thủ lãnh Bính Xuyên, xb Văn Học, Sài gòn, 1999, trg 288-289 và Pháp Luật Tp Hồ Chí Minh, Xuân 1998.

Cũng nên để ý Nguyên Hùng là đảng viên cộng sản nên viết luôn luôn nhằm phục vụ cho tuyên truyền cộng sản và công kích những người ái quốc chống cộng sản.

(**) Đi Hát, tiếng lóng của giới giang hồ ở Nam kỳ có nghĩa là đi ăn cướp.

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.