Hôm nay,  

Dạy Tiếng Mỹ Ở Đảo Rồi Tiếng Việt Ở Mỹ

31/10/201700:00:00(Xem: 6789)
TT Thành, WA

 
Khoản cuối năm tám mươi khi lên được đảo Galang tôi bắt đầu ‘mở lớp dạy Anh văn’ liền cho người đi chung chuyến mình.  “Lớp học”  lúc đầu là căn trống phiá dưới một barrack với tấm ván tường làm bảng viết.  “Học sinh” có kẻ bồng người ẵm con ngồi bệt trên nên xi măng chăm chú học bài.  Nổi mừng tới được đảo và lòng hy vọng được đi định cư tràn trề  làm mọi ngươì, cả thấy lẫn trò, hăng hái trong việc dạy và việc học hành.

Sau đó tôi được mời dạy cho chùa và một số hội đoàn trên đảo.  Có nơi số người học thật đông gây cho tôi thật nhiều hứng khởi.  Ngoài ra vì không có thân nhân ở ngoại quốc trợ gíup tiền bạc, tôi còn nhận dạy tư cho nhóm và cho cá nhân để kiếm tiền sinh sống trong thời gian daì hơn ba năm ở đảo.  Chưa lúc nào tôi thấy mình gíup ích được cho những người đồng cảnh ngộ với mình như trong thời gian này.  Đi đâu cũng được mọi người thân mến gọi bằng “thầy” làm tôi được vô cùng mản nguyện.

Những nhóm dạy tư thường là ở một phòng bào đó trong barrack , chừng năm ba người tụ lại với nhau để học trong hai hay ba tiếng đồng hồ, vài ba ngày trong tuần.  Sách học thì gỡi mua hay người này mua lại của người đã đi.  Lớp học chú trọng vào loại Anh ngữ đàm thoại, ít nặng vể văn phạm nhưng chú trọng về phần đàm thoại thực hành.  Vaò thởi điểm có lệnh của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên hiệp Quốc đóng cữ các trại tỵ nạn khoàn cuốn năm 89, làn sóng người vượt biển bổng dâng cao.  Ngày nào cũng có vài ba chiếc tàu vưột biển được nhận vào trại.  Theo đà nhân số vượt biển tăng, Galang 1 trước đây hoang tàn, bỏ phế  bổng trổi mình sống lại.  Từ Galang 2 trở ra Galang 1, lều trại bổng đầy nghẹt người tỵ nạn cuối mùa, số người học Anh ngữ tăng theo cấp số nhân.  Một trong những kỷ niệm dạy tiếng Anh ở đảo mà tôi nhớ mãi đến giờ là anh học trò tên Thông.

Thông lúc đó trên dưới ba mươi, sống chung với người bạn gái , ngừi này có con riêng và người em, coi như một giă đình.  Thông có được đức tính siêng năng và tinh thân ‘trọng sư’ đáng qúy.  Để kiếm thêm nguồn thu nhập cho gia đình, Thông vào mé rừng Galang 2 để xây một lò làm bún nhỏ cung cấp cho các tiệm ăn trên đảo.  Thức khuya dậy sớm để ra mẻ bún, xong  rồi Thông đội thúng bún đi giao hàng , còn dư lại thì để gia đình ăn.  Thông thường biếu cho tôi bún để tỏ lòng kính mến.  Quần quật, đầu tắt mặt tối như vậy mà tối đến Thông vẫn đến barrack tôi để học.  Con đường thương mại phồn thịnh có  thể  gọi là  “Lê Thánh Tôn - Galang2” thì có điện do các chủ tiệm mua nhưng các barracks ở thì chỉ có ánh sang nhờ đền dầu thôi.  Vậy mà dưới ánh đèn dầu mù mù, Thông siêng năng, chuyên cần học với tôi cho đến lúc Thông và gia đình đi định cư ở Canada.   Vài năm sau khi định cư ở Mỹ, tôi có dịp qua chơi ở Toronto và có đến thăm Thông và gia đình anh.  Lúc đó Thông mới mua chiếc xe Toyota mới tinh do đồng lương kiếm được với nghề làm thợ tiện trong khi tôi chưa có được một chiếc xe ra hồn để chạy.  Thật là một bài học về tính chuyên cần mà tôi phải học ở Thông.

Tôi tiếp tục dạy tiếng Anh nhiều chỗ, nhiều nơi , cho những ai có nhu cầu để kiếm sống cho đến ngày rời dảo đi định cư.

Qua Mỹ., với sự giúp đỡ tận tình của người bạn trẻ là Nhân, tôi lại được cắp sách đền trường.  Mỗi ngày hai anh em, Nhân chở tôi trên chiếc xe pickup hiệu Mazda màu đỏ để đi học tại trường đại học cộng đồng.  Cuối tuần thì hai anh em đi làm cỏ để kiếm tiền trả tiền mướn phòng và chi tiêu vặt.

Sau khi ra trường tôi vào làm ở trường dạy cho trẻ em ngươi Da đỏ nhưng vẫn liên lạc thường xuyên với trường cũ.  Một ngày nọ, khoảng vào năm hai ngàn, tôi đọc được một thông báo  của trường tìm người dạy tiếng Việt cho học sinh lờn tuổi ngươì Mỹ  học vì nhu cầu giao tiếp và thương mại. , tôi nộp đơn ngay để được phỏng vấn.  Vì là cựu sinh viên của trường và đã có bằng bốn năm nên tôi được nhận.  Lớp khoảng bảy người lớn, đủ thành phần.  Mỗi tuần hai buổi tối mỗi tối hai tiếng đồng hồ.  Tôi cũng áp dụng lối dạy đàm thoại với những đề tài thực tế sát với đời dsống hằng ngày.  Tôi cũng đem những băng hình về văn hoá và xã hội, âm nhạc Việt để tạo hào hứng cho lớp học.  Lớp học keó dài được ba tháng rồi ngưng.

Tôi cũng có dạy một lớp Việt ngữ cho người Mỹ lớn tuổi với tính cách tự nguyện cho trường Việt ngữ Hùng Vương ở Olympia vào buổi tối.   Trong số học viên có anh  tên Jim là chủ tiệm ăn đưới phố có vợ là người Việt cần học để giao tiếp  với bên vơ của mình.  Có người là sinh viên cần học để tìm hiểu thêm về tiếng Việt vân vân.  Tôi yêu câu mỗi học viên tự đặt cho mình tên Việt Nam để tạo không khí sát với thực tế.  Tôi soạn bài học ngắn theo đề tài đi sát với thực tế hằng ngày rồi sau khi tôi đọc bài viết trên bảng,  họ lặp lại cho quen âm Việt .  Kế tiếp là  từng học viên thay phiên nhau giữ một vai trò tập đàm thoại với nhau.  Cái khó nhất là phần phát âm vì âm Việt có năm dấu mà hầu như âm Mỹ không có.  Hầu hết học viên Mỹ đều không phát âm đứng được từ có  dấu’ nặng’.  Lớp học vui vẻ và hào hứng nhờ đề tài tôi chọn ra từ các đề tài có tính cách va chạm thực tế trong cuộc sống hằng ngày.

Ngoài ra tôi còn phụ trách lớp dạy Việt ngữ cho các em nhỏ lớn lên tại Mỹ cũng ở trường Việt ngữ Hùng Vương mỗi tối thứ Sáu.  Trở ngại của các em vẫn là phần phát âm tiếng Việt không được đúng vì lớn lên tại Mỹ.  Trong khi dạy ở trường Hùng Vương, tôi được biết một giáo viên đầy nhiệt tâm và tận tụy với các em trong việc dạy muá hát dân vũ và nhạc Việt lâu năm  tại trường mà chắc chị không buồn tôi khi đề cập đến tên của chị, đó là chị Dung.  Đoàn vũ nhà trường do chị , đào luyện hưóng dẫn công phu thuờng được mời đi trình diển trong các lễ hội trong quận.  Chị xứng đáng là một giáo viên có công to lớn trong việc giữ gìn văn hoá và bảo tồn tiếng Việt ở nước ngoài.

Tôi thấy mình mãn nguyện khi dạy tiếng Mỹ cho người đồng cảnh ở đảo và phổ biến tiếng Việt khi ở xứ này .  It ra tôi cũng đóng góp được một phần nào vào việc mang chữ nghĩa đến cho nhiều người.  Mỗi khi được nghe tiếng gọi “thầy”  nơi các học viên tôi cảm thấy mình đã làm được một cái gì đó, dù nhỏ nhưng được mọi người chấp nhận với lòng kính mến.  Như vậy là tôi đã không uổng công liều sống chết vượt biển và phụ lòng kỳ vọng của ba má tôi khi hai người còn sinh tiền./.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chất phóng xạ theo định nghĩa được chia làm hai loại: phóng xạ ion hóa và phóng xạ không ion hóa. Phóng xạ không ion hóa đến từ các dạng như ánh sáng, các làn sóng điện radio hay radar
Bài báo của phóng viên Martin Wisckol ghi nhận là năm 2000 chỉ có một vị dân cử gốc Việt tại Quận Cam. Vậy mà bây giờ có tới 10 dân cử gó6c Việt, trong đó 4 người mới thắng cử
Ở Việt Nam, năm 2006 ghi nhận hai sự kiện quan trọng nổi bật. Một là, Việt Nam được gia nhập WTO. Hai là, tổng thống Hoa Kỳ George Bush sang thăm Việt Nam nhân Hội nghị APEC 14
Sáng nay tiết trời Hà nội lạnh, không khí bị phủ một lớp sương mờ, không có ánh mặt trời. Ngày đầu tiên của năm 2007
Nhưng nếu không có sự đụng chạm giữa các nền văn minh, thế giới chúng ta cũng đang đối đối đầu trước một sự đụng chạm khác. Học giả Dominique Moĩsi, một cố vấn thâm niên của
Thời gian thắm thoát trôi, mới đó mà đã 22 năm kể từ ngày các Anh vĩnh viễn ra đi. Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại có rất nhiều đổi thay, nhưng các anh nào có biết! Hôm nay nhân ngày giỗ
tôi mong là từ năm nay, Hà Nội nên có chính sách văn minh hơn với người dân của mình. Đó là bình thường hóa quan hệ với người Việt Nam chứ đừng chỉ có sợ người ngoại quốc...
Gerald R. Ford, tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ, lên nắm quyền sau khi Tổng Thống Richard Nixon 
Tổng thống Ford là một người tử tế. Nhưng thiếu mưu mô... Trong một số báo đầu năm, chúng ta nên nói về chuyện tử tế. Không có gì tử tế hơn là nói về nhân vật đang được quốc táng
Căn cứ Khe Sanh nằm lọt giữa một thung lũng, các ngọn đồi bao bọc chung quanh, do đó đây không hẳn là một vị trí có thể quan sát bao quát hết các vị trí địch.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.