TỈNH NGHỆ AN
Tỉnh Nghệ An diện tích: 16.490 km vuông. Dân số năm 2011 là: 3.113.000 người, mật độ 178 người/km vuông. Sắc dân: Kinh, Thái, Thổ, H’ Mông. Gồm có: Thành phố Vinh, 2 thị xã: Cửa Lò, Thái Hoà và 17 huyện: Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Đô Lương, Nghị Lộc, Hương Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Tân Kỳ, An Sơn, Con Cuông, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn. Tỉnh lỵ ở thành phố Vinh. Nghệ An bắc giáp Thanh Hoá, tây giáp nước Lào, nam giáp Hà Tĩnh, đông giáp biển. Nhiệt độ trung bình là 23,5 độ C.
Lịch sử tỉnh Nghệ An: Vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh, khi xưa thuộc Việt Thường, đến thời Hùng Vương thuộc bộ Hoài Hoan, là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Thuộc Hán gọi là quận Cửu Chân, thuộc nhà Tuỳ gọi là quận Nhật Nam. Năm 1802, thời vua Gia Long gọi là trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mạng gọi tỉnh Nghệ An. Năm 1976, sáp nhập Nghệ An và Hà Tĩnh gọi là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh cho đến nay.
Nghệ An, kinh tế phát đạt, nông, lâm, ngư nghiệp đều tiến triển, trường ốc khang trang, giao thông thuận lợi.
Lễ hội ở Nghệ An: Lễ hội đền Cuông ngày 15 tháng 2 (ÂL), tưởng nhớ Thục An Dương Vương và tướng Cao Lỗ, nơi Đền Cuông còn giữ được nhiều di vật giá trị từ thời xa xưa như: Trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế tự...
Lễ hội Hang Bua được tổ chức nơi núi đá vôi Phà Én, thuộc huyện Quý Châu. Trong Hang Bua có nhiều nhũ đá tạo các hình trông ly kỳ. Lễ hội Hang Bua là lễ hội lớn của địa phương, được tổ chức từ ngày 20 đến 24 tháng giêng (ÂL).
Lễ hội đền vua Mai tại thị trấn Nam Đàn, cách thành phố Vinh khoảng 22 km. Mai Hắc Đế là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, đánh đuổi quân Đường (Tàu), vào thế kỷ thứ 8. Lễ được tổ chức nơi mộ và đền của ông rất long trọng từ ngày 13 đến 15 tháng giêng (ÂL), Nghi lễ gồm có: Lễ khai quang, lễ cáo yết, lễ đại tế, sau phần lễ là các trò chơi truyền thống: Đua thuyền, đấu đô vật, cờ tướng...
Dân chúng còn cúng thần Núi, thần Đất, vì tin những vị thần này, phù hộ cho quốc thái dân an, có công với dân với nước.
Lễ đền Nguyễn Sư Hồi, người có công lập ra huyện Nghi Lộc, lễ được tổ chức hai ngày 15 và 16 tháng giêng (ÂL).
Đình Hoành Sơn, xây năm 1763, ỡ huyện Nam Đàn, đây là ngôi đình lớn ở Nghệ An, thờ Lý Nhật Quang (Tam Tòa Đại Vương), người có công khai khẩn vùng Nam Kinh vào thế kỷ 11.
Khu di tích Núi Quyết, rộng khoảng 160 ha (núi 56 ha), vua Quang Trung, đã cho xây Phượng Hoàng Trung Đô ở giữa Núi Quyết và núi Kỳ Lân, chu vi thành nội 1.680m, thành ngoại 2.820m, đứng trên thành thấy sông Lam, sông Vĩnh Danh, nhìn hướng đông thấy Hòn Ngư, Hòn Mát, thật kỳ vĩ. Núi Quyết vốn có thế: “Long, lân, quy, phụng”. Nhưng được nhắc nhở và nổi tiếng kể từ khi có bức thư Nguyễn Huệ gởi cho Nguyễn Thiếp, bức thư viết: “Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành sơn, quả cung (từ tự xưng khiêm cung) đã tỉ mỉ xem bản đồ, thấy nơi huyện Chân Lộc, xã Yên Trường (núi Quyết, Bến Thủy) hình thế rộng rãi, khí tượng sáng sủa, là đất tốt để đóng đô vậy...” (Trích trong chiếu của Nguyễn Huệ, gởi cho La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, thư ngày 3-9-1788.
Thành cổ Nghệ An, do vua Gia Long cho xây dựng năm 1804, thành hình lục giác có 3 cửa, tường cao 4,4m, với diện tích 420.000 m2, chung quanh thành là hào nước sâu 3m.
Bãi biển Cửa Lò dài gần 10 km, cát trắng mịn màng, rừng phi lao xanh tốt, gió thổi réo rắt, Nhiệt độ luôn mát mẻ, nên nơi đây là nơi nghỉ mát lý tưởng.
Chợ Nậm Cắn ở biên giới Việt-Lào, nơi họp chợ là khu đất bằng phẳng, có hình bán nguyệt, được bao bọc bởi dòng suối Nậm Cắn, uốn khúc ngoằn ngoèo, nước chảy êm ả. Chợ được mở vào ngày giữa và đầu tháng, nhân dân hai nước buôn bán nhộn nhịp, hàng hoá bày la liệt trên bãi cỏ.
Khu rừng Pù Mát thuộc huyện An Sơn, rừng còn nguyên sinh, có nhiều dược thảo quí: Hà thủ ô, quế, thổ phục linh... có tới 240 loài thú, có 137 loài chim; phong cảnh hữu tình.
Thác Khe Kẽm trong khu thiên nhiên Pù Mát, thác có độ cao 120m, nước từ trên cao chót vót, đổ xuống ào ào qua ba thang bậc, tung bọt trắng xóa trông thật ngoạn mục.
Thác Xao Va thuộc huyện Quý Châu, thác cao 40m, nước đổ thoai thoải, trông luồng nước bạc thơ mộng.
Nghệ An non nước thênh thang
Núi cao, biển rộng, xóm làng thiết tha
.
Cảm tác: Non nước Nghệ An
.
Nghệ An non nước, bạt ngàn trông
Biển cả bao la ở phía đông
Tây giáp nước Lào, sừng sững núi
Bắc liền Thanh Hoá, phẳng phiu đồng
.
Nghệ An ruộng rẫy, rộng thênh thang
Buôn bán giao thông khá dễ dàng
Cây gỗ tràn trề, rừng rậm rạp
Cá tôm đầy rẫy, biển mênh mang
.
Đền Cuông lễ hội, đến dâng hương
Tưởng niệm tổ tiên giữ thổ cương
Kính cẩn anh hùng dòng giống Việt
Ghi ơn tiên đế, An Dương Vương
.
Quang Trung, núi Quyết đến thăm dò
Nguyễn Thiếp đắn đo khắp địa đồ
Sông núi vững vàng xây đế nghiệp
Đất đai liền lặn, dựng Trung Đô
.
Vùng biên Nậm Cắn chợ xôn xao
Đông đúc bán buôn Việt với Lào
Hàng hoá tờ mờ, la liệt đất
Quán lều chạng vạng, gọn gàng bao
.
Khu rừng Pù Mát, rừng nguyên sinh
Cây cỏ tốt tươi, cảnh hữu tình
Dược thảo sởn sơ, phong cảnh đẹp
Nghệ An rộng rãi, nước non xinh
Nguyễn Lộc Yên
Tỉnh Nghệ An diện tích: 16.490 km vuông. Dân số năm 2011 là: 3.113.000 người, mật độ 178 người/km vuông. Sắc dân: Kinh, Thái, Thổ, H’ Mông. Gồm có: Thành phố Vinh, 2 thị xã: Cửa Lò, Thái Hoà và 17 huyện: Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Đô Lương, Nghị Lộc, Hương Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Tân Kỳ, An Sơn, Con Cuông, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn. Tỉnh lỵ ở thành phố Vinh. Nghệ An bắc giáp Thanh Hoá, tây giáp nước Lào, nam giáp Hà Tĩnh, đông giáp biển. Nhiệt độ trung bình là 23,5 độ C.
Lịch sử tỉnh Nghệ An: Vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh, khi xưa thuộc Việt Thường, đến thời Hùng Vương thuộc bộ Hoài Hoan, là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Thuộc Hán gọi là quận Cửu Chân, thuộc nhà Tuỳ gọi là quận Nhật Nam. Năm 1802, thời vua Gia Long gọi là trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mạng gọi tỉnh Nghệ An. Năm 1976, sáp nhập Nghệ An và Hà Tĩnh gọi là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh cho đến nay.
Nghệ An, kinh tế phát đạt, nông, lâm, ngư nghiệp đều tiến triển, trường ốc khang trang, giao thông thuận lợi.
Lễ hội ở Nghệ An: Lễ hội đền Cuông ngày 15 tháng 2 (ÂL), tưởng nhớ Thục An Dương Vương và tướng Cao Lỗ, nơi Đền Cuông còn giữ được nhiều di vật giá trị từ thời xa xưa như: Trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế tự...
Lễ hội Hang Bua được tổ chức nơi núi đá vôi Phà Én, thuộc huyện Quý Châu. Trong Hang Bua có nhiều nhũ đá tạo các hình trông ly kỳ. Lễ hội Hang Bua là lễ hội lớn của địa phương, được tổ chức từ ngày 20 đến 24 tháng giêng (ÂL).
Lễ hội đền vua Mai tại thị trấn Nam Đàn, cách thành phố Vinh khoảng 22 km. Mai Hắc Đế là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, đánh đuổi quân Đường (Tàu), vào thế kỷ thứ 8. Lễ được tổ chức nơi mộ và đền của ông rất long trọng từ ngày 13 đến 15 tháng giêng (ÂL), Nghi lễ gồm có: Lễ khai quang, lễ cáo yết, lễ đại tế, sau phần lễ là các trò chơi truyền thống: Đua thuyền, đấu đô vật, cờ tướng...
Dân chúng còn cúng thần Núi, thần Đất, vì tin những vị thần này, phù hộ cho quốc thái dân an, có công với dân với nước.
Lễ đền Nguyễn Sư Hồi, người có công lập ra huyện Nghi Lộc, lễ được tổ chức hai ngày 15 và 16 tháng giêng (ÂL).
Đình Hoành Sơn, xây năm 1763, ỡ huyện Nam Đàn, đây là ngôi đình lớn ở Nghệ An, thờ Lý Nhật Quang (Tam Tòa Đại Vương), người có công khai khẩn vùng Nam Kinh vào thế kỷ 11.
Khu di tích Núi Quyết, rộng khoảng 160 ha (núi 56 ha), vua Quang Trung, đã cho xây Phượng Hoàng Trung Đô ở giữa Núi Quyết và núi Kỳ Lân, chu vi thành nội 1.680m, thành ngoại 2.820m, đứng trên thành thấy sông Lam, sông Vĩnh Danh, nhìn hướng đông thấy Hòn Ngư, Hòn Mát, thật kỳ vĩ. Núi Quyết vốn có thế: “Long, lân, quy, phụng”. Nhưng được nhắc nhở và nổi tiếng kể từ khi có bức thư Nguyễn Huệ gởi cho Nguyễn Thiếp, bức thư viết: “Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành sơn, quả cung (từ tự xưng khiêm cung) đã tỉ mỉ xem bản đồ, thấy nơi huyện Chân Lộc, xã Yên Trường (núi Quyết, Bến Thủy) hình thế rộng rãi, khí tượng sáng sủa, là đất tốt để đóng đô vậy...” (Trích trong chiếu của Nguyễn Huệ, gởi cho La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, thư ngày 3-9-1788.
Thành cổ Nghệ An, do vua Gia Long cho xây dựng năm 1804, thành hình lục giác có 3 cửa, tường cao 4,4m, với diện tích 420.000 m2, chung quanh thành là hào nước sâu 3m.
Bãi biển Cửa Lò dài gần 10 km, cát trắng mịn màng, rừng phi lao xanh tốt, gió thổi réo rắt, Nhiệt độ luôn mát mẻ, nên nơi đây là nơi nghỉ mát lý tưởng.
Chợ Nậm Cắn ở biên giới Việt-Lào, nơi họp chợ là khu đất bằng phẳng, có hình bán nguyệt, được bao bọc bởi dòng suối Nậm Cắn, uốn khúc ngoằn ngoèo, nước chảy êm ả. Chợ được mở vào ngày giữa và đầu tháng, nhân dân hai nước buôn bán nhộn nhịp, hàng hoá bày la liệt trên bãi cỏ.
Khu rừng Pù Mát thuộc huyện An Sơn, rừng còn nguyên sinh, có nhiều dược thảo quí: Hà thủ ô, quế, thổ phục linh... có tới 240 loài thú, có 137 loài chim; phong cảnh hữu tình.
Thác Khe Kẽm trong khu thiên nhiên Pù Mát, thác có độ cao 120m, nước từ trên cao chót vót, đổ xuống ào ào qua ba thang bậc, tung bọt trắng xóa trông thật ngoạn mục.
Thác Xao Va thuộc huyện Quý Châu, thác cao 40m, nước đổ thoai thoải, trông luồng nước bạc thơ mộng.
Nghệ An non nước thênh thang
Núi cao, biển rộng, xóm làng thiết tha
.
Cảm tác: Non nước Nghệ An
.
Nghệ An non nước, bạt ngàn trông
Biển cả bao la ở phía đông
Tây giáp nước Lào, sừng sững núi
Bắc liền Thanh Hoá, phẳng phiu đồng
.
Nghệ An ruộng rẫy, rộng thênh thang
Buôn bán giao thông khá dễ dàng
Cây gỗ tràn trề, rừng rậm rạp
Cá tôm đầy rẫy, biển mênh mang
.
Đền Cuông lễ hội, đến dâng hương
Tưởng niệm tổ tiên giữ thổ cương
Kính cẩn anh hùng dòng giống Việt
Ghi ơn tiên đế, An Dương Vương
.
Quang Trung, núi Quyết đến thăm dò
Nguyễn Thiếp đắn đo khắp địa đồ
Sông núi vững vàng xây đế nghiệp
Đất đai liền lặn, dựng Trung Đô
.
Vùng biên Nậm Cắn chợ xôn xao
Đông đúc bán buôn Việt với Lào
Hàng hoá tờ mờ, la liệt đất
Quán lều chạng vạng, gọn gàng bao
.
Khu rừng Pù Mát, rừng nguyên sinh
Cây cỏ tốt tươi, cảnh hữu tình
Dược thảo sởn sơ, phong cảnh đẹp
Nghệ An rộng rãi, nước non xinh
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn